Bảy loại vơ
BẢY LOẠI VỢ
========
Ở trong từ Hán Ngữ
Phụ nữ là chữ gì?
Trên chữ AN có Mái
Dưới chữ Nữ nằm trong
Vì vậy nên ta biết
Phụ nữ ở trong nhà
Trên chồng là MÁI ấm
Vợ là chữ An gia ( Nữ)
Đức Phật ta bảo có:
Bảy loại vợ trên đời
Ngài bảo loại thứ nhất
Là " Vợ sát nhân" thôi!
Loại thứ hai ngài bảo:
Là " Trôm cắp côn đồ"
Loại thứ ba Phật bảo:
Vợ " chủ nhân" thiên cơ!
Loại thứ tư Phật bảo:
Ví vợ " Như mẹ hiền"
Thứ năm là vợ giống:
Như là " một người em"
Phật bảo liền loại sáu:
Vợ như " người bạn" con
Loại bảy ngài lại ví:
Như " người hầu" không hơn.
Phật hỏi người chồng tốt
Rằng con chọn cô nào?
Ba loại đầu con tránh
Không chọn chẳng làm sao!
Bốn loại sau rất tuyệt
Đáng tôn kính, noi theo
Vợ như là mẹ tốt
Sống cuộc đời thanh cao
Vợ như là "em gái"
Rồi lại như "người hầu"
Sống tạo ra hạnh phúc
Chết " cõi lành" đón chào!
Nhưng sinh ra chữ "vợ"
Là bởi bảy loại " chồng"
Cứ vung nào nồi ấy
Có thẳng là có cong!
Ta nhớ lời Phật dạy
Ta chọn vợ là " em"
Sống với nhau như " Bạn"
Cuộc đời là cõi TIÊN
Vũ Dũng thuật theo lời Phật. ( 11/3/2014) => HIỂU THẾ NÀY MÀ SỐ NÓ NHỌ:d
=========================
THAM VẤN CHI TIẾT:
====================
BẢY LOẠI VỢ
Trong chữ Hán có chữ An, ở trên có mái nhà, ở dưới có chữ Nữ, nên người phụ nữ trong nhà rất quan trọng
thường thì bây giờ ko ở rể cũng là làm dâu, nên Phật có cả bài kinh dành cho vợ. Bối cảnh là 1 lần qua nhà cư sĩ Cấp Cô Độc và gặp con dâu ông nay, nên mới có nhân duyên giảng 1 bài kinh về vợ, bài này nói đúng thời đúng lúc nên hợp căn cơ, mà nói đúng thời dúng lúc gọi là khế kinh. ví dụ nếu gặp trường hợp nàng dâu đối với cha mẹ chồng, mà Phật nói chàng rể đối với cha mẹ vợ cũng ko đúng, hay chồng đối với vợ cũng ko đúng.
" Chính tôi được nghe " đây là lời ngài A Nan thuật lại, ngài A Nan là thị giả của Phật nên luôn luôn đi theo Phật. Một sáng nọ đức Phật dự lễ cúng dường tại nhà của cư sĩ Cấp Cô Độc, đây là 1 biệt hiệu mà người ta đặt cho ngài, chứ thật ra tên ngài là Tu Đạt Đa, bởi vì ông có cái lòng từ thiện rất là lớn nên ai nghèo khổ muốn ông giúp là ông giúp mà ko cần đòi hỏi 1 cái gì hết, nên biệt hiệu của ông là Cấp Cô Độc, Cấp là cung cấp, cô độc là người cô độc, nên ông là người chuyên cung cấp cho người cô độc, thiếu thốn. Thì đức Phật đến dự bữa cơm do ông mời, khi tới nơi đức Phật thoáng nghe những lời chửi bới ồn ào vọng lên từ nhà sau, mà nhà sau là ở đâu các vị biết ko? Đó là ở dưới bếp, tại vì cái chỗ đó có lửa mà, xào nấu nhiều nên dễ phát lửa, nên khi các vị có đi đâu mà nghe loáng thoáng ở dưới bếp là biết, xào nấu nó ko có thơm mà nó khét rùi. Chính vì nghe loáng thoáng tiếng chửi bới ồn ào từ nhà sau nên ngài mới hỏi cư sĩ Cấp Cô Độc.
" Này cư sĩ, trong nhà có việc gì mà ồn ào như thế? ".
Nghe hỏi như vậy thử hỏi xem coi mặt ngài tu sĩ như thế nào ? ko thể tưởng tượng được ngài thẹn thùng đến mức nào. khi nghe đức Phật hỏi vậy không lẽ ko trả lời nên ngài mới trả lời
" Bạch đức Thế Tôn, đó là sự ngỗ nghịch lớn tiếng của nàng dâu của con, nó tên là Su-cha-ta. Tuy là dâu trong gia đình, nhưng nó ỷ vào sự giàu có của gia đình cha mẹ ruột nên nó thất lễ, không có chịu nghe lời, không biết cung kính cha mẹ chồng. Bạch Thế Tôn, ngay cả chồng nó mà nó cũng đối xử thô lỗ vô lễ như vậy. Ngoài ra nó cũng ko biết cung kính đảnh lễ các bậc cao đức, mặc dù hôm nay Thế Tôn tới "
Ý cuả ngài Cấp Cô Độc nói là " dù nó biết hôm nay nhà có khách nhưng mà nó cũng không nể mặt 1 chút nào hết " tiếng Hoa gọi là " Bĩ mĩn "
Nên khi các người con khi nghe câu này thì phải thông cảm và phải cố gắng khi nhà có khách có khứa, đừng để cha mẹ phải khó xử
nên ngài Cấp Cô Độc mới nói :
" Thế Tôn làm ơn cảm hoá giùm đứa con dâu của con "
Bấy giờ đức Thế Tôn mới gọi nàng dâu lại và nói :
" Này Su-cha-ta, có 7 loại vợ trên đời này, con phải chín chắn suy nghĩ cho kỹ và cho Như Lai biết con thuộc loại vợ nào? Bảy loại vợ như thế này :
1 là vợ như sát nhân,
2 là vợ như trộm cướp,
3 vợ như chủ nhân,
4 là vợ như mẹ hiền,
5 người vợ như người em,
6 người vợ như người bạn,
7 người vợ như người hầu"
Nói tới đây thì đức Phật ngưng, khi nghe nói như vậy, thì làm sao hiểu ý ngài muốn nói gì nên cô ấy mới nói dạ con hiểu Phật nói nhưng con ko hiểu chi tiết
" Bạch đức Thế Tôn, lời dạy của ngài quá ngắn gọn nên con ko thể hiểu được, kính mong ngài từ bi chỉ dạy cặn kẽ "
Đức Phật nói :
1 " Người vợ nào có tâm địa hiểm độc, 2 lòng ko chung thủy trong hôn nhân, bỏ rơi chồng mình. Quan hệ bất chính với các đàn ông khác chỉ vì choáng ngợp trước cái sự giàu có hay vẻ bề ngoài của họ, khinh bỉ chồng, vì tánh tình hiếu sát. Vợ như vậy Như Lai gọi là vợ sát nhân"
Quí vị thấy đức Phật ví người vợ như 1 người sát nhân, Khi chúng ta dám cưới, tục lệ là đeo chiếc nhẫn, mà chiếc nhẫn có hình dáng tròn là tượng trưng cho tình nghĩa vuông tròn ko có hở rồi lấy cái chất quý nhất trên đời là vàng, trong 7 thứ quý còn được gọi là thất bảo. Vàng, Bạc, Lưu ly, Pha Lê, Xa Cừ, Xích Châu, Mã não, 7 loại thì vàng là đứng đầù. là khi vợ chồng chia sẽ cái tình thương đó, nó cũng nguyên chất, cao quý như vàng, dù xuống bùn hay vào lữa cũng ko bị phai nhạt. Nhiều khi vợ chồng đỗ vỡ là do họ cứ lấy chồng mình đi so sánh với chồngng # hay lấy vợ mình đi so sánh. cái đó ko có nên ngay cả con cái cũng ko được rồi, ai mà ko có tự ái. Ai cũng có cái tự ái riêng mà tự ái gọi là Bản ngã.
2 " người vợ thứ 2 là không có chung lo kinh tế gia đình, trái lại còn tiêu xài hoang phí tài sản hợp pháp của chồng tạo ra, người vợ như vậy Như Lai gọi là vợ ăn trộm " nói vậy thôi không phải là nói vợ ăn trộm, Nên bài kinh này vợ không nên tiêu xài hoang phí, tiền bạc trong nhà còn hay không do vợ biết tiết kiệm tằng tiện.
3 " Người vợ nào sống ỷ lại lười biếng, không có lời từ ái, nhu hoà với chồng mà chỉ biết phát ngôn thô tháo lấn lướt chồng, Người vợ như vậy Như Lai gọi là vợ chủ nhân "
có 1 bài ca dao nói về Người` vợ như sau " Làm dâu khó lắm anh ơi. Nhịn ăn nhịn mặc nhịn lời mẹ cha. Nhịn cho nên cửa nên nhà, nên kèo nên cột nên xà tầm vong. Nhịn cho nên vợ nên chồng, rồi em coi sóc lấy trông cửa nhà "
4 " Người vợ nào biết thương yêu chăm sóc, giúp đỡ chồng, biết cách giữ gìn và làm giàu tài sản của chồng như một người mẹ lo lắng chu tất cho con cái. Người vợ như vậy, Như Lai gọi là loại vợ như mẹ "
Ko phải lúc nào cũng chỉ có Người vợ mới lo cho chồng, mà ngay cảNgười` chồng cũng phải chăm sóc vợ mình.
5 "Người vợ nào thuỳ mị, đoan trang, khiêm tốn, biết chiều chuộng và thuần phục mình như đối với 1Người anh trong gia đình, Người vợ này Như Lai gọi là loại vợ như em " nên khi 2 Người làm đám cưới có cái tục lệ bái nhau, có ý nghĩa là tương kính như tân
6 " Người vợ nào luôn luôn niềm nở vui vẻ, hòa thuận với chồng. Như thể hội ngộ 1 Người bạn từ lâu mới gặp, luôn giữ tiết hạnh và chung thủy với chồng,Người vợ như vậy Như Lai gọi là vợ như bạn " thường vợ chồng gọi nhau là bạn đời, là Người bạn luôn đi đôi, luôn chia sẽ với mình và sống suốt đời với mình
7 " Người vợ nào luôn mềm mỏng, ko nóng tánh, ko sân hận, ko giận dỗi dù bị chồng đối xử ko đẹp nhưng vẫn nhường nhịn, không tỏ thái độ lỗ mãng, lớn tiếng trái lại còn biết tuỳ thuận khuyên răn, chinh phục chồng mình, vợ như vậy như Người hầu " Người vợ khéo léo, hiểu, biết thương, biết cảm thông khi chồng giận, khi chồng là cái bật lửa thì mình đừng là cái bình xăng, nó chaý thì ai chịu, con mình chịu "
Cho nên khi nói như vậy rồi thì Phật mới hỏi : "
" Này Su-cha-ta, 3 loại vợ đầu ko nên có, 4 loại vợ sau thì nên học. Vậy thì bây giờ con muốn chọn loại vợ nào ? "
Khi gnhe hỏi như thế cô trả lời :
" Dạ, con xin chọn loại vợ thứ 7 là vợ như người hầu "
ba hạng đầu là loại vợ như sát nhân, như những người bất hảo, do đó con nên xa tránh. Những hạng vợ như vậy do sống không giới hạnh, ác khẩu và vô lễ, sau khi qua đời phải sanh vào cõi xấu. Bốn loại vợ sau là đáng tôn kính và noi theo. Đó là vợ như mẹ, vợ như em, vợ như bạn và vợ như người hầu. Những hạng vợ này khi sống thì tạo ra hạnh phúc cho gia đình và con cái; khi qua đời thì được sanh vào cõi lành
Dựa trên tinh thần giáo dục của bài Kinh, chúng ta có thể quy ra bảy loại người chồng tương ứng với bảy loại người vợ, đó là: chồng như kẻ sát nhân, chồng như người ăn trộm, chồng như chủ nhân, chồng như người cha, chồng như người anh trai, chồng như người bạn, và chồng như người hầu.
Ở đây, giáo dục hôn nhân theo tinh thần của lời Phật dạy không chỉ dừng lại ở nữ giới, mà bao trùm cả nam giới, một thành phần quan trọng không thể thiếu trong việc tạo dựng hạnh phúc lứa đôi. Nói cách khác, để đời sống hôn nhân được loan phụng hoà minh, trăm năm hạnh phúc, cả đôi bạn đời phải biết từ bỏ các thái độ và lối cư xử phụ tình, phụ bạc, tiêu xài phung phí của cải của chung, và muốn làm “xếp” của người kia. Thêm vào đó, đôi bạn đời phải biết lo lắng và chăm sóc cho nhau như cha mẹ của nhau, chung lo cho con cái. Cả hai phải sống với thái độ tận tâm giúp đỡ nhau trong đời, để cùng thăng hoa. Cả hai phải biết chăm sóc, lo lắng và chu toàn cho nhau như người em gái lo cho anh trai hay như người anh trai lo cho em gái của mình. Cả hai phải xem nhau như hai người bạn đồng hành trong mọi lãnh vực: phu xướng phụ tuỳ và ngược lại. Và không kém phần quan trọng, cả hai phải biết sống với thái độ dâng hiến cho nhau và vì nhau như người hầu lo cho chủ nhân của mình.
===============================
Có bảy hạng vợ. (A.IV.91-93)
1. Sát nhân thê – vaddhakā bhariyā.
Ai tâm bị uế nhiễm,
Không từ mẫn thương người,
Thích thú những người khác,
Khinh rẻ người chồng mình,
Bị mua chuộc bằng tiền,
Hăng say giết hại người,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ sát nhân.
2. Đạo tặc thê – corī bhariyā.
Còn hạng nữ nhân nào,
Tiêu xài tài sản chồng,
Do công nghiệp đem lại,
Hay thương nghiệp, nông nghiệp,
Do vậy, nếu muốn trộm,
Dầu có ít đi nữa,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ ăn trộm.
3. Chủ nhân thê – ayyā bhariyā.
Không ưa thích làm việc,
Biếng nhác, nhưng ăn nhiều,
Ác khẩu và bạo ác,
Phát ngôn lời khó chịu,
Mọi cố gắng của chồng,
Ðàn áp và chỉ huy,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi là vợ chủ nhân.
4. Hiền mẫu thê – mātā bhariyā.
Ai luôn luôn từ mẫn,
Có lòng thương xót người,
Săn sóc giúp đỡ chồng,
Như mẹ chăm sóc con,
Tài sản chồng cất chứa,
Biết hộ trì gìn giữ,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ như mẹ,
5. Hiền muội thê – bhaginī bhariyā.
Ai như người em gái,
Ðối xử với chị lớn,
Biết cung kính tôn trọng,
Ðối với người chồng mình,
Với tâm biết tàm quí,
Tùy thuận phục vụ chồng,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ như chị.
6. Bằng hữu thê – sakhī bhariyā.
Ai ở đời thấy chồng,
Tâm hoan hỷ vui vẻ,
Như người bạn tốt lành,
Ðã lâu từ xa về,
Sinh gia đình hiền đức,
Giữ giới, dạ trung thành,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ như bạn.
7. Nô bộc thê – dāsī bhariyā.
Không tức giận, an tịnh,
Không sợ hình phạt, trượng,
Tâm tư không hiềm hận,
Nhẫn nhục đối với chồng,
Không phẫn nộ tức giận,
Tùy thuận lời chồng dạy,
Hạng người vợ như vậy,
Ðược gọi vợ nữ tỳ.
(Tăng Chi Bộ Kinh 4. Chương Bảy Pháp. Phẩm Không Tuyên Bố. Phần Các Người Vợ)
- Năm cách để cho người vợ trở thành hoàn hảo. (A.III.36-37)
Đức Phật đã dạy cho những người con gái sắp lấy chồng năm điều để họ suy ngẫm :
Này các thiếu nữ, các Con hãy học tập như sau: "Ðối với những người chồng nào, mẹ cha cho các con, vì muốn lợi ích, vì tìm hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn khởi lên, đối với vị ấy, chúng ta sẽ thức dậy trước, chúng ta sẽ đi ngủ sau cùng, vui lòng nhận làm mọi công việc, xử sự đẹp lòng, lời nói dễ thương." Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: "Những ai, chồng ta kính trọng, như mẹ, cha, Sa-môn, Bà-la-môn, chúng ta sẽ tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường và khi họ đến, chúng ta sẽ dâng hiến họ chỗ ngồi và nước." Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: "Phàm có những công nghiệp trong nhà, hoặc thuộc về len vải hay vải bông, ở đây, chúng ta sẽ phải thông thạo, không được biếng nhác, tự tìm hiểu phương pháp làm, vừa đủ để tự mình làm, vừa đủ để sắp đặt người làm." Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: "Trong nhà người chồng, phàm có nô tỳ nào, hay người đưa tin, hay người công thợ, chúng ta sẽ phải biết công việc của họ với công việc đã làm; chúng ta sẽ phải biết sự thiếu sót của họ với công việc không làm. Chúng ta sẽ biết sức mạnh hay sức không mạnh của những người đau bệnh. Chúng ta sẽ chia các đồ ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi người tùy theo phần của mình". Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau: "Phàm có tiền bạc, lúa gạo, bạc và vàng người chồng đem về, chúng ta cần phải phòng hộ, bảo vệ chúng, và sẽ gìn giữ để khỏi ăn trộm, ăn cắp, kẻ uống rượu, kẻ phá hoại". Như vậy, này các Thiếu nữ, các con cần phải học tập.
(Tăng Chi Bộ Kinh 3. Chương Năm Pháp. Phẩm Sumanā. Phần Người Gia Chủ)
- Đó là niềm hạnh phúc. (Jā.453)
Yassa bhariyā tulyavayā samaggā,
Anubbatā dhammakāmā pajātā;
Koliniyā sīlavatī patibbatā,
Dāresu ve sotthānaṃ tadāhu.
Vợ hiền, đồng tuổi, có tình thân,
Tận tụy, nhân từ, trẻ lại đông,
Ðức hạnh, trung thành, dòng quý tộc,
Ấy niềm hạnh phúc giữa hồng quần.
- Của hồi môn tốt đẹp nhất. (DhpA.53)
Của hồi môn tốt đẹp nhất mà cha mẹ có thể dành cho con gái mình là những lời giáo huấn được ghi lại trong chú giải kinh pháp cú qua những lời huấn dụ của cha nói với bà đại thí chủ Visākhā vào ngày bà lấy chồng :
Không đem lửa trong nhà ra ngoài.
Không đem lửa ở ngoài vào nhà.
Chỉ cho những người đáng được cho.
Không cho những người không đáng cho.
Cho cả hai hạng người, đáng cho và không đáng cho.
Ngồi một cách vui vẻ.
Ăn một cách vui vẻ.
Ngủ một cách an lạc.
Trông nom, gìn giữ lửa.
Tôn trọng các vị trời ở trong nhà.
Ngụ ý những lời dạy trên như sau :
Lửa ở đây ngụ ý những lời phỉ báng, vu cáo. Một người vợ không nên nói xấu chồng và gia đình chồng cho người khác nghe; cũng như không nên nói những khuyết điểm hay những cuộc cãi cọ ở trong nhà chồng cho người khác nghe.
Không nên nghe ngóng ở ngoài đường hay những người láng giềng nói xấu gia đình bên chồng rồi đem về nhà mà thuật lại cho gia đình bên chồng nghe.
Chỉ nên cho người nào mượn mà biết rằng sẽ đem trả lại.
Không nên cho người nào mượn mà biết rằng người ấy thường mượn luôn không bao giờ hoàn trả lại.
Những thân bằng quyến thuộc nghèo khó thì nên giúp đỡ họ, cho dù biết rằng họ không thể trả lại được.
Ngồi một cách vui vẻ có nghĩa là khi thấy cha mẹ chồng, nên đứng dậy để tỏ lòng tôn kính chớ không nên ngồi im lặng. Những lời dạy này dành cho những người vợ biết khiêm nhường, biết lễ độ để biểu hiện sự kính trọng cha mẹ chồng.
Ăn một cách vui vẻ nghĩa là trước khi ăn cơm, hãy quan sát xem có những gì thiếu xót mà cha mẹ chồng cần khi ăn không; nếu có nên đi lấy mang đến dâng cho họ rồi mới được ngồi ăn. Và cũng nên chăm sóc miếng ăn cho tôi tớ trong nhà chu đáo nữa.
Ngủ một cách an lạc không có nghĩa là người vợ muốn ngủ bao lâu hay giờ giấc nào tùy thích mà ngụ ý là trước khi đi ngủ phải nên đi quan sát xem tất cả cửa nẻo đã đóng lại hết chưa, đồ đạc trong nhà được an toàn chưa, tôi tớ đã làm xong phận sự trong nhà chưa, cha mẹ chồng và chồng đã lên giường ngủ chưa, xong rồi mới nên đi ngủ. Một người vợ hiền phải nên thức dậy sớm trừ khi bị đau ốm hay không được khỏe và cũng không nên ngủ ban ngày.
Lửa ở đây ám chỉ cho cha mẹ chồng và chồng. Hãy đối xử với họ hết sức cẩn trọng như thể sử dụng lửa vậy, nếu vô ý sẽ bị phỏng hoặc nhiều tai hại khác nữa.
Các vị trời trong nhà ở đây ý muốn nói đến cha mẹ chồng và chồng. Phải tỏ ra hết sức kính trọng họ. Chính ngay như Đức Phật khi đề cập đến cha mẹ bên vợ lúc Ngài còn là bồ tát thì Ngài vẫn xem họ như là chư thiên tại thế (sassudeva).
Theo phong tục phương Đông, người vợ xem chồng mình như ông vua. Theo lời dạy của Đức Phật thì người vợ được xem như là một người bạn tốt của chồng.
Nhiệm vụ của người chồng là phải nên đối xử với vợ như một người thân cận mang đến lợi ích to lớn nhất và nên xem vợ như là tấm thân thứ hai của mình. Một người vợ đảm đang và chung thủy hết sức coi trọng chồng như là nơi nương tựa, che chở lý tưởng của mình.
Người vợ cũng không quên lo lắng đến nhữngbản phận trong đời sống đạo hạnh. Các vị Sa môn, Bà-la-môn đến nhà lúc hợp thời phải nên đối xử với họ một cách tôn kính. Phải tỏ ra niềm nở với các vị ấy.
- Sức mạnh tinh thần của người phụ nữ. (Apa.11.535)
Người nam luôn thể hiện sự ngờ vực về tinh thần của người nữ là không tin tưởng, ngay như sau khi biết được sự thành tựu của giáo hội Tỳ-khưu Ni là một minh chứng tốt đẹp được Đức Phật tán thán khi bà Gotamī viếng thăm và đảnh lễ Ngài vào thời điểm bà sắp Níp-bàn :
"Này Tỳ-khưu ni Gotamī, bà đã thực hiện tốt đẹp một cách kỳ diệu trong việc xóa tan mọi quan điểm sai lầm của những người nam ngu muội mà trong tâm trí của họ đầy sự hoài nghi về những tiềm lực tâm kinh của người phụ nữ".
- Vật hấp dẫn ở thế gian. (A.I.1)
Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông như sắc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một tiếng nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như tiếng người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, tiếng người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một hương nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như hương người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, hương người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một vị nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như vị người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, vị người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Ta không thấy một xúc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như xúc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
(Tăng Chi Bộ Kinh 1. Chương Một Pháp. Phẩm Sắc. Phần Nữ Sắc)
- Các đức hạnh mà người phụ nữ nên trau dồi. (S.IV.143)
Những đức hạnh làm cho người phụ nữ trở nên tốt đẹp cả hai đời, đời này và đời sau đã được Đức Phật tuyên bố như sau:
1. Có tâm đạo nhiệt thành.
2. Có tâm hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi.
3. Không nuôi dưỡng tâm địa ác độc, oán thù và sân hận.
4. Không ghen tuông bóng gió.
5. Không cãi vả mà nên có lòng rộng lượng.
6. Nhã nhặn trong mọi hành vi.
7. Đầy đủ đức hạnh.
8. Học hỏi để nâng cao kiến thức, nhất là sự hiểu biết.
9. Nhiệt tình và sốt sắng trong công việc.
10. Luôn phòng hộ tâm và khôn khéo trong xử sự.
11. Có trí tuệ hiểu biết.
- Bản chất của người phụ nữ.
Mặc dù, thực sự Đức Phật nâng cao thân phận người phụ nữ, Ngài đã thể hiện qua sự giữ giới của Ngài và khuyên dạy các để tử từ thời này sang thời khác, nhưng Ngài vẫn nhận biết được sự khác biệt về vấn đề xã hội và sinh lý giữa người nam và người nữ vẫn còn tồn tại.
Những điều này đã được miêu tả trong Aṅguttara Nikāya và Saṃyutta Nikāya. Mặc dù trong một vài đoạn kinh, có một vài nguyên do nói lên tai hại về tư cách và sự quyến rũ của người nữ đáng bị chỉ trích đã được ghi lại.
Trong Saṃyutta Nikāya, Đức Phật đã có ý đưa ra nhiều yếu tố để xóa bỏ thành kiến này. Trong một vài trường hợp, người nữ được xem như sáng suốt và thông minh hơn người nam, và người nữ cũng có khả năng chứng đắc quả giải thoát hay đắc được các quả vị Thánh sau khi họ tu tập Bát chính đạo.
Đối với những người phụ nữ đã bị xúc động thái quá và đau khổ cùng tột khi bị mất đi người thân yêu, Đức Phật đã dạy về cái chết không thể nào tránh được của chúng sinh như đã được trình bày trong tứ diệu đế và nhiều dẫn vụ khác nhau được trích giảng về vấn đề này. Đối với và Visākhā, bị quá xúc động vì lòng thương yêu của bà ngoại khi bị mất đi đứa cháu gái, Đức Phật đã an ủi bà như sau :
Do ái sinh sầu ưu,
Do ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi?
Bình luận
Bình luận bằng Facebook