/ / / /

Luật sư Vũ Ngọc Dũng – M&A trong Bất động sản (Mua bán doanh nghiệp) truyền hình Info TV.


Luật sư Vũ Ngọc Dũng – M&A trong Bất động sản (Mua bán doanh nghiệp) truyền hình Info TV.

1. Tổng quan về định giá Doanh Nghiệp:

1.1 Quan điểm về giá trị Doanh Nghiệp:

Giá trị doanh nghiệp là giá trị hiện tại các khoản thu nhập từ kết quả hoạt động kinh doanh (HĐKD) của doanh nghiệp trong tương lai và giá trị thương hiệu của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố: các nhân tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.

1.2 Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp:

1.2.1. Các nhân tố bên ngoài: Các nhân tố này không thuộc phạm vi kiểm soát của chính doanh nghiệp và chịu tác động bởi bối cảnh kinh tế xã hội của quốc gia và những quy định của Nhà nước, bao gồm: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tình hình lạm phát, lãi suất tín dụng, hoạt động của TTCK, …tất cả các nhân tố này đều tác động đến tỷ lệ hoàn vốn, thu nhập dự kiến, tỷ suất rủi ro,… và do đó ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp.

1.2.2. Các nhân tố bên trong: Đây là các nhân tố nằm trong khả năng kiểm soát của chính doanh nghiệp, bao gồm:

a. Hiện trạng tài sản cố định (TSCĐ):

Tài sản trong một doanh nghiệp bao gồm: tài sản lưu động (TSLĐ) và TSCĐ. Tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp là sản xuất, kinh doanh hay thương mại, dịch vụ mà cơ cấu và tỷ trọng tài sản trong các doanh nghiệp khác nhau sẽ khác nhau.

Đối với các doanh nghiệp sản xuất: do đặc điểm phải sử dụng nhiều máy móc thiết bị, phương tiện làm việc để tạo ra sản phẩm nên cơ cấu TSCĐ sẽ chiếm tỷ trọng lớn, do vậy TSCĐ là một trong những yếu tố quyết định kết quả sản xuất kinh doanh (SXKD). Như vậy, hiện trạng TSCĐ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp.

b. Giá trị thương hiệu của doanh nghiệp:

Thương hiệu là một tài sản vô hình đặc biệt, nó được xem là tài sản quan trọng nhất do những hiệu quả kinh tế mà thương hiệu mang lại. Thương hiệu ảnh hưởng đến sự lựa chọn của người tiêu dùng, nhà đầu tư góp phần tạo ra giá trị cho cổ đông.

Giá trị thương hiệu là những lợi ích mà doanh nghiệp có được khi sở hữu thương hiệu này, những lợi ích này bao gồm:

– Có thêm khách hàng mới: nhờ có lợi thế về thương hiệu mà người tiêu dùng tin tưởng vào chất lượng và uy tín của sản phẩm, qua đó Công Ty có thể phát triển và thu hút thêm lượng khách hàng mới thông qua chương trình tiếp thị.

– Duy trì khách hàng trung thành: sự trung thành về thương hiệu sẽ giúp Công Ty duy trì lượng khách hàng trung thành của mình, do họ quen thuộc với thương hiệu mà họ đã từng sử dụng, nên sẽ không có thói quen thay đổi sự lựa chọn khác. Sự trung thành sẽ được tạo ra bởi 4 nhân tố trong tài sản thương hiệu là:

sự nhận biết thương hiệu,

chất lượng cảm nhận,

thuộc tính thương hiệu,

và các yếu tố khác.

Chất lượng cảm nhận và thuộc tính thương hiệu cộng thêm sự nổi tiếng của thương hiệu sẽ tạo thêm niềm tin và lý do để khách hàng mua sản phẩm.

– Thiết lập một chính sách giá cao hợp lý: tài sản thương hiệu sẽ giúp cho công ty thiết lập một chính sách giá cao và ít lệ thuộc hơn đến các chương trình khuyến mãi. Trong khi với những thương hiệu có vị thế không tốt thì thường phải sử dụng chính sách khuyến mãi nhiều để hỗ trợ bán hàng.

– Mở rộng kênh phân phối, phát triển thương hiệu: tài sản thương hiệu sẽ tạo một nền tảng cho sự phát triển thông qua việc mở rộng thương hiệu. Một thương hiệu mạnh sẽ làm giảm chi phí truyền thông rất nhiều khi mở rộng thương hiệu, tận dụng tối đa kênh phân phối.

– Tạo rào cản với đối thủ cạnh tranh: tài sản thương hiệu còn mang lại lợi thế cạnh tranh và cụ thể là sẽ tạo ra rào cản để hạn chế sự thâm nhập thị trường của các đối thủ cạnh tranh mới.

c. Trình độ quản lý:

Chính là bộ máy quản lý của doanh nghiệp, một doanh nghiệp với một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, được sự hỗ trợ tích cực của bộ máy điều hành năng động chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp và ngược lại.

d. Loại hình kinh doanh:

Trong nền kinh tế thị trường, loại hình kinh doanh có ảnh hưởng quan trọng đến giá trị doanh nghiệp. Một loại hình kinh doanh có tỷ suất sinh lợi cao, ổn định và đang có xu hướng phát triển, mở rộng thì các doanh nghiệp này sẽ được quan tâm hơn và sẽ có cơ hội nâng cao giá trị lớn hơn. Ngược lại, các doanh nghiệp ở những ngành nghề kinh doanh đang có xu hướng co lại, tỷ suất lợi nhuận thấp và rủi ro cao thì giá trị cũng bị giảm đi.

e. Vị trí địa lý:

Một vị trí địa lý thuận lợi, phù hợp với ngành nghề kinh doanh, gần các trung tâm buôn bán, gần mặt đường lớn, thuận tiện trong vận chuyển thì doanh nghiệp sẽ có rất nhiều thuận lợi khi quan hệ giao dịch với khách hàng, nắm bắt nhanh nhạy nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, để điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh của mình…Vị trí địa lý tốt sẽ là một lợi thế của doanh nghiệp và chắc chắn sẽ làm cho giá trị của doanh nghiệp cao hơn giá trị sổ sách rất nhiều.

f. Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp: bao gồm

– Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Cash Flow report):

– Bảng Cân đối kế toán – CĐKT (Balance Sheet):

– Bảng Kết quả hoạt động kinh doanh – KQHĐKD (Income report):

Các báo cáo này phản ánh tình hình "sức khỏe” của doanh nghiệp vào thời điểm cần định giá. Với các báo cáo tài chính này, người ta có thể đánh giá được khả năng tạo ra tiền, sự biến động tài sản thuần của doanh nghiệp, khả năng dự đoán dòng tiền, cơ cấu tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

2. Một số phương pháp định giá doanh nghiệp:

Trên cơ sở lý thuyết, giá trị doanh nghiệp gồm có tổng giá trị tài sản hiện có (tài sản hữu hình và tài sản vô hình), khả năng sinh lời của doanh nghiệp, …cộng với giá trị thương hiệu của doanh nghiệp. Giá trị thương hiệu là một yếu tố vô hình, giá trị này chỉ có thể định được ở một mức độ tương đối cho một doanh nghiệp đã có một quá trình hoạt động ổn định lâu dài và phần lớn đã được khách hàng chấp nhận.

Trong giới hạn của luận văn, người viết xin phép được bỏ qua các phương pháp định giá doanh nghiệp trong tiến trình cổ phần hóa, mà chỉ tập trung vào một số phương pháp định giá doanh nghiệp cho mục đích Hợp Nhất – thâu tóm. Các phương pháp này sẽ xác định giá trị doanh nghiệp có thể định lượng được (kèm theo chương trình phần mềm ứng dụng để minh họa), sẽ bỏ qua các yếu tố mang tính định tính của doanh nghiệp sau:

– Nhân sự quản lý;

– Hệ thống tổ chức quản lý;

– Văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp.

2.1 Phương pháp định giá trị thương hiệu:

Có rất nhiều cách hiểu khác nhau, tuy nhiên có thể xem khái niệm giá trị thương hiệu qua 3 cách tiếp cận chính sau đây:

– Giá trị thương hiệu là chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra đầu tư để có được thương hiệu. Người ta gọi đó là "Giá thành” (Cost) của thương hiệu. Thông thường "Giá thành – Cost” của thương hiệu được tính qua các chi phí marketing.

– Giá trị thương hiệu là giá trị có được khi sử dụng thương hiệu có thể bán và thu được bao nhiêu tiền. Đây là "Giá bán” (Price) của thương hiệu. Thông thường "Giá bán – Price” của thương hiệu được tính qua thu nhập có được do phí bản quyền thương hiệu (Royalty) mà doanh nghiệp sở hữu thương hiệu thu được qua các hoạt động nhượng quyền thương mại (Franchising).

– Ba là cách xác định xem thương hiệu đã mang lại cho doanh nghiệp khoản thu nhập là bao nhiêu trong quá khứ sẽ còn mang lại bao nhiêu thu nhập trong tuơng lai. Người ta gọi đó là "Giá trị” (Value) của thương hiệu. Như vậy giá trị thương hiệu là thu nhập mà thương hiệu có thể mang về cho doanh nghiệp chủ sở hữu thương hiệu.

Do đó, để xác định giá trị thương hiệu, người định giá cần xác định 2 bước quan trọng như sau:

Bước 1: Tách phần thu nhập do thương hiệu mang lại trong tổng thu nhập của doanh nghiệp (trong quá khứ cũng như trong tương lai). Như vậy, về thực chất thương hiệu được xem là một nguồn lực, là tài sản của doanh nghiệp. Những nguồn lực (hữu hình và vô hình), những tài sản (hữu hình và vô hình) của doanh nghiệp cùng góp phần tạo nên thu nhập chung cho Doanh nghiệp. Kế toán doanh nghiệp chỉ cung cấp thu nhập của doanh nghiệp như một tổng thể, ít khi Chia Tách thu nhập của doanh nghiệp theo các nguồn lực của doanh nghiệp. Tuy nhiên vấn đề tách thu nhập theo từng loại tài sản của doanh nghiệp thì chỉ xuất hiện khi khái niệm tài sản vô hình được định hình.

Đây là một khâu quan trọng của vấn đề định giá thương hiệu. Ở bước 1, người định giá sẽ xác định phương pháp hay kỹ thuật định giá tách thu nhập do thương hiệu mang lại từ tổng thu nhập của doanh nghiệp.

Bước 2: Định giá thương hiệu như định giá một tài sản (vô hình) khi đã biết dòng thu nhập do thương hiệu mang lại. Trong giới hạn của luận văn, người viết đề cập đến phương pháp/kỹ thuật tách thu nhập do thương hiệu mang lại từ tổng thu nhập của doanh nghiệp bằng phương pháp chiết khấu dòng tiền để xác định giá trị thương hiệu mà tổ chức Interbrand sử dụng. Interbrand là một tổ chức có uy tín hàng đầu về định giá thương hiệu. Tổ chức này nghiên cứu và sử dụng mô hình giá trị kinh tế của thương hiệu, bao gồm cả yếu tố marketing và yếu tố tài chính trong việc định giá thương hiệu. Phương pháp này bao gồm 5 bước cơ bản:

Bước 1.1: Phân khúc thị trường (Market Segmentation):

Thị trường của thương hiệu được Chia thành nhiều nhóm khách hàng tương đối đồng nhất với nhau theo những tiêu chuẩn như sản phẩm hay dịch vụ, kênh phân phối, mẫu tiêu dùng, sự phức tạp trong mua sắm, bằng sáng chế, khu vực địa lý, khách hàng hiện tại và khách hàng mới, … Vì thương hiệu có ảnh hưởng khác nhau ở các phân khúc, nên việc tính toán phải được thực hiện ở từng phân khúc riêng và tổng giá trị của các phân khúc sẽ hợp thành tổng giá trị của thương hiệu.

Bước 1.2: Phân tích tài chính (Financial Analysis)

Xác định và dự báo doanh thu, cũng như lợi nhuận kiếm được từ tài sản vô hình có được nhờ thương hiệu cho những phân khúc đã được xác định, bằng cách lấy tổng doanh thu của doanh nghiệp trừ đi chi phí sản xuất, chi phí hoạt động, thuế và các loại chi phí khác.

Bước 1.3: Phân tích nhu cầu (Demand Analysis):

Đo lường sự ảnh hưởng của thương hiệu đến nhu cầu của khách hàng ngay tại điểm mua hàng, từ đó ta xác định được tỷ lệ % đóng góp của thu nhập vô hình có được nhờ thương hiệu, thường gọi là chỉ số "vai trò của thương hiệu” (Role of Brand Index). Chỉ số này được tính bằng cách xác định những xu hướng nhu cầu khác nhau về sản phẩm có gắn thương hiệu, sau đó xác định mức độ mà mỗi xu hướng chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi thương hiệu. Nói cách khác, chỉ số này đại diện cho phần trăm (%) tài sản vô hình được tạo ra bởi thương hiệu hay thương hiệu đóng góp bao nhiêu % trong lợi nhuận kiếm được từ tài sản vô hình. Thu nhập của thương hiệu bằng chỉ số "Vai trò của xây dựng thương hiệu” nhân với thu nhập vô hình. Đây được xem là bước phức tạp nhất trong quá trình định giá thương hiệu.

Bước 1.4: Xác định "sức mạnh thương hiệu” (Brand Power Score) và "lãi suất chiết khấu”

Theo InterBrand thì sức mạnh của thương hiệu dựa vào 7 yếu tố các thang điểm như sau:

Yếu tố

Điểm tối đa

Tính dẫn đầu (brand leadership)

25

Tính ổn định (stability)

15

Thị trường (Market)

10

Địa lý (Geography)

25

Xu hướng thương hiệu (trend)

10

Hoạt động hỗ trợ (brand support)

10

Bảo hộ thương hiệu (protection)

5

Tổng cộng (Sức mạnh thươnng hiệu)

100

Điểm "sức mạnh thương hiệu” được tính bằng tổng điểm của 7 yếu tố trên. Tuy nhiên, tùy vào từng ngành, lĩnh vực kinh doanh khác nhau mà các tiêu chí này sẽ có sự linh động, khi cần thiết mỗi tiêu chí này có thể phân tích thành những tiêu chí thành phần khác nhau. "Chỉ số sức mạnh thương hiệu” thể hiện độ ổn định của khả năng sinh lời của thương hiệu, độ ổn định của chính thương hiệu.

Chúng ta cần phân tích những điểm mạnh và điểm yếu của thương hiệu nhằm xác định lãi suất khấu. Lãi suất chiết khấu là lãi suất phản ánh độ rủi ro của thu nhập kỳ vọng trong tương lai có được nhờ thương hiệu. Căn cứ chỉ số sức mạnh thương hiệu ngành (những thương hiệu cạnh tranh), Interbrand xây dựng mối tương quan giữa chỉ số sức mạnh thương hiệu với tỷ lệ chiết khấu ứng với thị trường trong ngành của thương hiệu đang xét. Đây là bài toán thị trường không dễ thực hiện ở nước ta. Trên cơ sở mối tương quan này, chúng ta xác định tỷ lệ chiết khấu cho thu nhập thương hiệu khi biết "chỉ số sức mạnh” của thương hiệu đang xét. Phương pháp này khó áp dụng hiệu quả ở Việt Nam vì thị trường còn thiếu các căn cứ để tạo ra các cơ sở cho việc ứng dụng phương pháp này.

Việc xác định "lãi suất chiết khấu” dựa vào phương trình đường thẳng với trục tung để thể hiện giá trị này và trục hoành thể hiện điểm "sức mạnh thương hiệu”. Điểm "sức mạnh thương hiệu” càng cao thì tỷ lệ "lãi suất chiết khấu” càng nhỏ.

Bước 1.5: Xác định giá trị thương hiệu (Brand Value Calculation):

Giá trị thương hiệu chính là giá trị hiện tại (Net Present Value – viết tắt: NPV) của các dòng tiền do thương hiệu tạo ra, trong đó tỷ lệ chiết khấu được xác định bởi chỉ số sức mạnh của thương hiệu. Giá trị hiện tại không chỉ rút ra ở thời điểm dự đoán mà còn ở thời điểm xa hơn nữa để có thể phản ánh khả năng tạo ra nguồn thu nhập liên tục trong tương lai của thương hiệu.

2.2 Phương pháp định giá doanh nghiệp (hữu hình):

2.2.1. Phương pháp dựa vào lợi nhuận tương lai:

Phương pháp định giá doanh nghiệp dựa vào lợi nhuận trong tương lai có rất nhiều phương pháp định giá và tên gọi khác nhau. Trong phạm vi luận văn này, người viết xin phép được nhắc đến hai phương pháp chính thường được áp dụng khi xác định giá trị doanh nghiệp:

– Phương pháp chiết khấu dòng tiền mặt

– Phương pháp tỷ lệ giá trên lợi nhuận

Trong giới hạn của luận văn, người viết sẽ trình bày phương pháp chiết khấu dòng tiền mặt. Riêng phương pháp tỷ lệ giá trên lợi nhuận được thể hiện trong phần phụ lục để tham khảo.

Trong các phương pháp định giá, phương pháp chiết khấu dòng tiền được ưa chuộng nhất nhưng phức tạp nhất, đòi hỏi người định giá phải tốn nhiều công sức nhất. Khi xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp này, người định giá phải thực hiện các bước cơ bản sau:

Bước 1: Dự đoán dòng tiền mặt luân chuyển trong các năm dự tính. Người định giá phải phân tích các giả thiết liên quan tới dòng tiền mặt, dự đoán được thu nhập từ các hoạt động kinh doanh, lợi nhuận trước lãi vay, lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp trong một vài năm tới. Các giả thiết liên quan tác động đến dòng tiền mặt bao gồm:

– Dự tính Doanh thu

– Dự tính giá thành sản xuất – tiêu thụ sản phẩm

– Dự tính tình hình công nợ của doanh nghiệp, chi phí vốn lưu động, đặc biệt là đối với nợ vay Ngân hàng, cần xem xét các yếu tố quyết định khả năng trả nợ, thanh toán các khoản vay như lãi suất vay trong khi thời điểm hiện nay lãi suất Ngân hàng thay đổi và điều chỉnh theo hướng tăng lãi suất, thời hạn trả nợ và điều kiện thanh toán.

– Bảng cân đối kế toán để dự tính các khoản chi phí vốn và những thay đổi về vốn lưu động có thể xảy ra.

– Dự kiến các dữ liệu cơ bản để tiến hành định giá như tỷ lệ chiết khấu, giá trị cuối cùng của doanh nghiệp.

Bước 2: Dự tính tỷ lệ hoàn vốn (hay còn gọi là tỷ lệ chiết khấu) thích hợp. Trong quá trình định giá doanh nghiệp, người định giá tính toán giá trị hiện tại của từng dòng tiền được dự tính thông qua chiết khấu từng dòng tiền mặt. Tỷ lệ hoàn vốn sử dụng khi chiết khấu dòng tiền mặt trong tương lai thực chất phản ánh giá trị của đồng tiền theo thời điểm.

Có nhiều yếu tố tác động tới tỷ lệ chiết khấu này, người ta thường phân chia thành 3 nhóm yếu tố chính sau:

– Rủi ro đặc biệt: là các rủi ro khi thực hiện hoạt động kinh doanh trong nước có doanh nghiệp được định giá. Các nhà đầu tư đòi hỏi tỷ lệ hoàn vốn cao ở các nước có nhiều rủi ro. Người ta chia rủi ro đặc biệt thành 02 loại chính, bao gồm:

Các rủi ro kinh tế:

Do tiền tệ không ổn định, nền kinh tế lạm phát.

Thị trường lao động chưa phát triển, không ổn định

Cơ chế thuế không hợp lý, lãi suất, khan hiếm vống,…

Các rủi ro chính trị:

Hệ thống thể chế đang hình thành, chưa phát triển.

Môi trường pháp lý hay thay đổi,…

– Rủi ro công ty: là các rủi ro có thể xảy ra đối với doanh nghiệp, bao gồm: mức độ rủi ro trong quản lý và trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mức độ rủi ro, biến động của ngành công nghiệp và loại hình kinh doanh mà doanh nghiệp đang hoạt động.

– Tỷ lệ hoàn vốn tối thiểu: là tỷ lệ hoàn vốn tối thiểu bình quân của nền kinh tế tại đất nước có doanh nghiệp được định giá. Khi xác định tỷ lệ này, người ta tính toán đến tỷ lệ lãi suất thực có tính đến yếu tố lạm phát của nước này.

Bước 3: phân tích số năm dự tính và xác định giá trị cuối cùng. Giá trị cuối cùng là số cộng của giá trị hiện tại của tất cả các dòng tiền mặt trong tương lai tính tại thời điểm đó. Để đưa ra các giả thiết xác thực hơn, người ta thường dự tính dòng tiền mặt trong thời gian 3 – 10 năm tới. Với giả định là dòng tiền mặt của Doanh nghiệp ở cuối kỳ dự đoán tiếp tục luân chuyển mãi mãi, hầu như không có biến động. Đây là phương pháp phổ biến nhất để tính giá trị cuối cùng của doanh nghiệp.

Theo phương pháp này, giá trị cuối cùng của doanh nghiệp được tính toán theo công thức:

Gc =

Trong đó: Gc: Giá trị cuối cùng của doanh nghiệp

Tn: Dòng tiền mặt của năm thứ n

n: Số năm dự tính dòng tiền mặt

r: Tỷ lệ chiết khấu

Bước 4: Xác định giá trị doanh nghiệp thông qua việc chiết khấu dòng tiền mặt. Đó là việc tính toán giá trị hiện tại thông qua lưu lượng tiền mặt luân chuyển dự kiến trong tương lai.

Công thức tính chiết khấu dòng tiền mặt như sau:

Gh=

Trong đó: Gh: Giá trị hiện tại

Ti: Dòng tiền mặt của năm thứ i

Ưu điểm:

Phương pháp định giá doanh nghiệp dựa vào lợi nhuận trong tương lai là phương pháp định giá dựa trên cơ sở đánh giá khả năng điều hành, dự tính khả năng hoạt động và sinh lợi của doanh nghiệp. Vì vậy, phương pháp này có một số ưu điểm sau:

– Ước đoán được những thay đổi của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh vận động và phản ánh tiềm năng hoạt động và sinh lợi của doanh nghiệp.

– Công việc định giá doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào các nội dung mà nhà đầu tư quan tâm, đó là tiềm năng thanh toán, thu hồi vốn của doanh nghiệp.

– Thông qua phương pháp này, người ta có thể đưa vào sổ sách kế toán các ước tính về thay đổi trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.

Nhược điểm:

Bên cạnh những ưu điểm trên, phương pháp này cũng có điểm hạn chế:

– Đòi hỏi phải dự tính được các giả thiết về hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai.

– Phương pháp này được xem là phương pháp phức tạp khi sử dụng để định giá doanh nghiệp. Vì vậy, để đánh giá kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai, người định giá phải có trình độ nghiệp vụ kinh doanh và quản lý kinh doanh cao, có thể đưa ra nhiều giả thiết thích hợp, liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai.

Mặc dù vậy, đối với các nhà đầu tư, giá trị doanh nghiệp được xác định bằng phương pháp này được đánh giá là chuẩn mực để xác định giá trị thị trường tiềm năng của doanh nghiệp mà họ quan tâm.

2.2.2. Phương pháp định giá dựa trên cơ sở thị trường:

Phương pháp dựa trên cơ sở thị trường có 2 phương pháp nhỏ được sử dụng hiện nay:

– Phương pháp giá trị tài sản thực (Net Asset Value Method)

– Phương pháp chi phí thay thế

– Phương pháp lợi nhuận thặng dư

Trong giới hạn của luận văn, người viết sẽ trình bày phương pháp giá trị tài sản thực.

Phương pháp giá trị tài sản thực được áp dụng khi doanh nghiệp được xem là tạm ngừng hoạt động hoặc có khả năng thanh lý tài sản. Giá trị tài sản không thể tách biệt với giá trị doanh nghiệp do có khả năng tạo ra lợi nhuận. Giá trị tài sản thể hiện trên các bảng kê, bảng Cân đối kế toán (CĐKT) sẽ khác biệt so với giá trị thị trường. Do số liệu trên CĐKT mang tính lịch sử nên khi doanh nghiệp bán đi, số liệu lịch sử không còn phù hợp. Chỉ có giá trị thị trường hợp lý của các tài sản mới là quan trọng. Như vậy, một sự điều chỉnh bắt buộc sẽ phải được thực hiện.

Để tiến hành các điều chỉnh giá trị tài sản cần thiết, người định giá cần thực hiện kiểm kê thực tế tất cả các tài sản của doanh nghiệp. Toàn bộ tài sản của doanh nghiệp sau khi đã kiểm kê và tính được giá trị theo sổ sách, người định giá căn cứ vào chất lượng còn lại và giá trị hiện hành (giá trị thị trường hợp lý) của từng loại tài sản để xác định lại giá trị tài sản thực còn.

– Đối với các TSCĐ: xác định nguyên giá, giá trị hao mòn và giá trị còn lại sau khi kiểm kê đánh giá lại. Những TSCĐ lạc hậu, chờ thanh lý hoặc không cần dùng cần phải được bán đi hoặc thanh lý và loại trừ chúng ra khỏi TSCĐ hiện có.

– Các khoản phải thu, hàng tồn kho (nếu có) cũng được đánh giá lại theo giá trị thị trường hợp lý. Các khoản công nợ không có khả năng thu hồi phải được loại trừ.

Sau khi đã kiểm kê, đánh giá và tính được giá trị thị trường hợp lý của toàn bộ tài sản, người định giá phải xác định xem TSLĐ và TSCĐ của doanh nghiệp được đầu tư, tài trợ bằng các nguồn vốn nào để từ đó xác định TSLĐ thuần và TSCĐ thuần của doanh nghiệp.

TSLĐ thuần còn gọi là vốn luân chuyển được tính bằng cách lấy giá trị TSLĐ sau khi kiểm kê, đánh giá lại trừ đi các khoản nợ ngắn hạn. TSCĐ thuần được tính bằng cách lấy giá trị TSCĐ sau khi kiểm kê, đánh giá lại trừ đi các khoản nợ dài hạn.

Tổng giá trị tài sản thuần của doanh nghiệp (bao gồm Vốn luân chuyển và TSCĐ thuần) được coi là giá trị doanh nghiệp xác định theo phương pháp giá trị tài sản thực và được viết dưới dạng công thức sau:

G= Gct + Glt

Hay G= (Gck – Nd) + (Glk – Nn)

Trong đó: G: Giá trị doanh nghiệp (hữu hình).

Gct: Giá trị tài sản cố định thuần.

Glt: Giá trị tài sản lưu động thuần (Vốn luân chuyển).

Gck: Giá trị tài sản cố định sau kiểm kê, đánh giá lại.

Glk: Giá trị tài sản lưu động sau kiểm kê, đánh giá lại.

Nd: Các khoản nợ dài hạn.

Nn: Các khoản nợ ngắn hạn.

"…Trích Hợp Nhất – thâu tóm doanh nghiệp dưới góc nhìn tài chính”

Bình luận

Chưa có bình luận cho bài viết này.

Gửi bình luận

Bạn cần Đăng nhập để viết bình luận bằng tài khoản cá nhân.

Bình luận bằng Facebook

" Luật sư sống bằng việc BÁN KIẾN THỨC và TRÍ TUỆ, SỰ HIỂU BIẾT. Khách hàng đến với Luật sư để MUA những thứ bạn có. Nếu bạn không những thứ đó thì sẽ bán gì cho khách hàng? Sự UYÊN THÂM trong nghề tạo ra giá trị thật sự cho thân chủ" - Luật sư Vũ Ngọc Dũng -0938188889

Đăng ký nhận tin

Nhập email để là người đâu tiên nhận được những tin tức mới nhất từ Blog Vũ Văn Dũng. Chúng tôi cam kết bảo đảm quyền riêng tư cho email của bạn.

Hỗ trợ trực tuyến