Nghiên cứu M&A: Ngưỡng kiểm soát M&A trong Luật doanh nghiệp ( Bài 27, phần 5)
Ngưỡng kiểm soát M&A trong Luật doanh nghiệp.Với Luật doanh nghiệp việc kiểm soát cũng được đề cập khá phù hợp với Luật cạnh tranh. Trong đó thống nhất điều chỉnh theo quy định thị phần kết hợp của thị trường liên quan.
- Tiêu chí xem xét thương vụ có thuộc trường hợp đạt ngưỡng kiểm soát hay không cũng dựa vào kết hợp thị phần trong thị trường liên quan. Theo đó Luật doanh nghiệp cũng quy định:“ Trường hợp hợp nhất mà theo đó công ty hợp nhất có thị phần từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại điện hợp pháp của công ty bị hợp nhất phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành hợp nhất, trừ trường hợp pháp luật về cạnh tranh có quy định khác.
Cấm các trường hợp hợp nhất mà theo đó công ty hợp nhất có thị phần trên 50% trên thị trường có liên quan, trừ trường hợp pháp luật về cạnh tranh có quy định khác.”
Pháp luật doanh nghiệp chỉ điều chỉnh hoạt động M&A dưới góc độ là hình thức cơ cấu tổ chức lại doanh nghiệp. Do đó với các quy định về sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp chủ yếu hướng vào việc cách thức và thủ tục thực hiện. Tuy vậy Luật doanh nghiệp cũng quy định các căn cứ pháp lý thống nhất trong ngưỡng quản lý M&A so với Luật cạnh tranh. Mọi giao dịch để thực hiện được việc đăng ký thủ tục tại cơ quan đăng ký kinh doanh mà thuộc trường hợp điều chỉnh của Luật cạnh tranh thì phải có sự cho phép của cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi thực hiện thương vụ. Về ngưỡng kiểm soát được quy định trong Luật doanh nghiệp cụ thể là:
Mức độ tự do giao dịch và không phải bị kiểm soát: Với những thương vụ mua bán doanh nghiệp ( Sáp nhập, hợp nhất, mua lại, mua bán cổ phần/vốn góp) mà không thuộc về trường hợp chịu sự điều chỉnh của Luật cạnh tranh thì các hoạt động này chỉ cần tiến hành các thủ tục theo Luật doanh nghiệp mà không chịu thực hiện các thủ tục theo pháp luật canh tranh và cơ quan Quản lý cạnh tranh không có bất kể vai trò quản lý nào hay các bên trong những vụ việc diễn ra không phải chịu bất kể sự báo cáo hay thủ tục gì phải làm tại cơ quan quản lý cạnh tranh.
Mức độ phải thông báo trước khi tiến hành thương vụ, trường hợp việc mua bán doanh nghiệp ( sáp nhập, hợp nhất và mua lại) thuộc nhóm những hành vi phải chịu sự điều chỉnh của Luật cạnh tranh tức thị phần kết hợp của thị trường liên quan của công ty sáp nhập, hợp nhất mà chiếm 30-50% thị phần thì các bên trong thương vụ hợp nhất, sáp nhập đó phải có trách nhiệm thông báo với cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành thương vụ. Thương vụ chỉ được thực hiện sau khi có trả lời bằng văn bản của cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc trường hợp không bị cấm thì mới được tiến hành các thủ tục M&A. (Khoản 3 Điều 152, Khoản 3 Điều 153 Luật Doanh nghiệp 2005).
Luật doanh nghiệp không quy định trường hợp bị cấm như Luật cạnh tranh nhưng dẫn chiếu Luật cạnh tranh về trường hợp bị cấm và áp dụng theo Luật cạnh tranh.
- Trong các giao dịch M&A được áp dụng theo Luật doanh nghiệp cũng quy định khá rõ ràng về nghĩa vụ thông báo góp vốn của công ty TNHH và nghĩa vụ thông báo trong chuyển nhượng cổ phần.
Kiểm soát với góp vốn vào công ty TNHH. Tại Điều 39 và Điều 84 Luật doanh nghiệp 2005 ( Điều 48 và Điều 74 Luật doanh nghiệp 2014) và Nghị định 102 CP ngày 01 tháng 10 năm 2010 Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp có quy định rất rõ ràng nghĩa vụ thông báo bằng văn bản về tiến độ góp vốn của công ty TNHH , thông báo góp vốn cổ phần của Công ty cổ phần. Hoạt động về thủ tục này chính là tiền đề tạo ra được sự chi phối và kiểm soát doanh nghiệp mục tiêu. Cách thức xác lập quyền tác động vào Điều lệ và phương hướng kinh doanh của công ty đối với các chủ thể tham gia hoạt động M&A muốn kiểm soát được doanh nghiệp mục tiêu của mình.
Tại khoản 1 Điều 39 Luật doanh nghiệp 2005 “Thành viên phải góp vốn đầy đủ và đúng hạn bằng loại tài sản góp vốn như đã cam kết. Trường hợp thành viên thay đổi loại tài sản góp vốn đã cam kết thì phải được sự nhất trí của các thành viên còn lại; công ty thông báo bằng văn bản nội dung thay đổi đó đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày chấp thuận sự thay đổi.
Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thông báo bằng văn bản tiến độ góp vốn đăng ký đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày cam kết góp vốn và phải chịu trách nhiệm cá nhân về các thiệt hại cho công ty và người khác do thông báo chậm trễ hoặc thông báo không chính xác, không trung thực, không đầy đủ.”
Kiểm soát với việc mua cổ phần trong công ty cổ phần. Những quy định về nghĩa vụ thông báo của công ty cổ phần trong hoạt động kiểm soát M&A: tại Điều 84 Luật doanh nghiệp 2005 quy định “Trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty phải thông báo việc góp vốn cổ phần đến cơ quan đăng ký kinh doanh” và tại Điều 23 về cổ đông sáng lập tại Nghị định 102/2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều Luật doanh nghiệp; Đây chính là phần quy định thủ tục và cách thức thông báo, đăng ký để được cơ quan đăng ký kinh doanh chấp nhận phần giao dịch đã mua lại phần vốn góp hay cổ phần của Bên mua với doanh nghiệp mục tiêu. Các hoạt động tập trung kinh tế diễn ra trong nôi bộ quyền của doanh nghiệp nhắc đến trong Luật cạnh tranh như mua lại doanh nghiệp một phần, mua lại toàn bộ được Luật doanh nghiệp quy định quy trình thủ tục xác lập địa vị pháp lý cho bên mua. Các thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh, thủ tục thông báo mua lại vốn góp hay cổ phần được quy định chi tiết.
Những quy định về nghĩa vụ đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh: Luật doanh nghiệp cũng quy định về nghĩa vụ đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh về việc cổ đông sở hữ từ 5% tổng số cổ phần trở lên trong thời gian 7 ngày kể từ ngày kể từ ngày có được sở hữu đó theo Điều 86 Luật doanh nghiệp.
Đây là những quy định trong Luật doanh nghiệp tạo điều kiện cho việc quản lý doanh nghiệp được dễ dàng. Ngoài ra cũng là một trong những cách thức tốt nhất để cung cấp thông tin chính xác cho việc xác minh hiện tượng tập trung kinh tế.Từ đó tạo điều kiện cho cơ quan quản lý cạnh tranh có thông tin chính xác về doanh nghiệp, các thương vụ cho việc quản lý hoạt động mua bán doanh nghiệp.
Các quy định của Luật doanh nghiệp hiện hành mặc dù là những điều khoản của Luật doanh nghiệp quy định chi tiết hoá và hỗ trợ Luật cạnh tranh đảm bảo quản lý tập trung kinh tế nhưng theo hướng báo cáo và cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ thẩm định thương vụ nhằm kiểm soát tập trung kinh tế chứ không can thiệp quá sâu vào nội bộ mỗi công ty trong quá trình hoạt động mà vốn dĩ là những quy định về quyền tài sản và địa vị pháp lý nội bộ phải do các thành viên, cổ đông chủ động quyết định.
( Bài viết của Luật sư Vũ Ngọc Dũng - sao chép dưới mọi hình thức đề nghị xin phép tác giả - 0387696666 - 0386319999) #vungocdung #mavietnam #bacvietluat #luatsu #muabandoanhnghiep
Bình luận
Bình luận bằng Facebook