Đào tạo luật sư ở Mỹ
Nghề luật sư ở Mỹ ra đời muộn hơn so với nghề luật sư ở các nước châu Âu như Anh, Pháp, Đức. Nước Mỹ với thể chế liên bang, tính đa dạng của các bang thành viên và sắc tộc đòi hỏi phải có mô hình tư pháp riêng và mô hình nghề luật thống nhất. Mô hình này ra đời trong bối cảnh môi trường pháp lý và xã hội đặc thù, ở đó nhà nước giảm thiểu sự can thiệp vào đời sống xã hội, trong tố tụng áp dụng nguyên tắc đối kháng, tại phiên toà thẩm phán và bồi thẩm đoàn chỉ căn cứ vào những gì họ nghe thấy tại phiên toà để đưa ra phán quyết của mình. Trong phòng xử án luật sư không bảo vệ công lý mà bảo vệ cho lý lẽ của mình. Người Mỹ có ý thức rằng chỉ cần luật sư giỏi là họ có cơ may thắng kiện và trên thực tế điều đó không phải là không có cơ sở.
Các luật sư Mỹ, dù có khác biệt về chuyên môn, danh tính và thu nhập nhưng đều làm một nghề có tính thống nhất và cùng có bằng cấp, học vấn và được đào tạo cơ bản chính thức như nhau. Hầu hết các bang ở Mỹ đều đòi hỏi người muốn trở thành luật sư phải hoàn thành 4 năm cao đẳng sau đó là 3 năm ở một trong 185 trường luật được Hội Luật gia Hoa Kỳ công nhận, cuối cùng phải đỗ kỳ thi công nhận luật sư. Kỳ thi công nhận luật sư của bang thường kéo dài từ hai đến ba ngày và gồm ít nhất hai phần: phần thi khách quan (Thi Luật sư Liên bang của Uỷ ban Quốc gia Giám khảo Luật sư (NCBE) kiểm tra kiến thức cơ bản về các vấn đề nền tảng như hợp đồng, tài sản, vi phạm dân sự, luật tố tụng và luật hiến pháp; phần thi viết bài luận về các chủ đề. Việc sử dụng Bài kiểm tra trắc nghiệm Multistate Perfomance Test (kiểm tra kỹ năng luật sư bằng cách đưa ra tình huống thực tế và những nguyên tắc pháp lý áp dụng cho tình huống để yêu cầu thí sinh đưa ra văn kiện pháp lý (hợp đồng, lời biện hộ…) cũng được sử dụng phổ biến.
Có tới 50-80% thí sinh đỗ trong kỳ thi công nhận luật sư này nên việc được nhận vào học ở trường luật là điều kiện mấu chốt để được chấp nhận làm luật sư ở Mỹ. Việc tuyển sinh vào trường luật có tính chọn lọc cao và được quyết định bởi kết quả học ở bậc cao đẳng và kết quả trong kỳ thi tuyển sinh LSAT. Ví dụ: Trường luật Yale có 5000 thí sinh nộp đơn xin học trên tổng số 170 chỉ tiêu tuyển sinh. Chi phí để vào học ở trường luật cũng là rào cản đáng phải kể đến: sinh viên ở các trường luật tư phải đóng khoảng 30.000 USD mỗi năm, sinh viên ở các trường luật công cũng phải đóng khoảng 15.000 – 20.000 USD mỗi năm[7].
Ở các trường luật đều dạy giống nhau trong năm đầu tiên với các khóa học về tài sản, hợp đồng, các vụ án dân sự, trình tự thủ tục, luật hình sự và tất cả được dạy chủ yếu theo phương pháp giảng tích cực (đối thoại với sinh viên) và phương pháp tình huống (case study). Theo yêu cầu của giáo sư, sinh viên phải đọc tài liệu trước khi đến lớp, bao gồm: các bản án (case method), các văn bản pháp luật, học thuyết pháp lý liên quan, một số bài viết về kinh tế và xã hội học (modified case method). Trong hầu hết các giờ học, người ta sử dụng phương pháp Socrate, theo đó sinh viên làm việc theo nhóm dưới sự chỉ đạo của giáo sư, trình bày về những gì họ đã học. Giáo sư sẽ đặt câu hỏi cho các học viên, thay đổi tình tiết các vụ việc…Đối với sinh viên từ năm thứ ba trong trường luật có thể áp dụng phương pháp thực hành trực tiếp (clinical method), theo đó một sinh viên tham gia tư vấn và đại diện cho khách hàng thực sự trong khuôn khổ trợ giúp tư pháp dưới sự theo dõi của luật sư – đồng thời là giáo sư. Các trường luật hướng tới việc đào tạo những con người có khả năng tư duy, có trình độ lý luận, có năng lực làm việc độc lập. Sinh viên phải nỗ lực trong nghiên cứu, tìm tòi, phân tích các văn bản luật cũng như tình tiết vụ việc cụ thể để có thể đưa ra các quan điểm, ý kiến và cách lập luận thuyết phục nhất[8]. Ở Mỹ có xu hướng kết hợp giữa đào tạo lý thuyết và đào tạo nghề trong chương trình trường luật để sinh viên sau khi tốt nghiệp chỉ cần qua thời gian tập sự ngắn đã có thể làm việc được.
Giáo dục pháp luật ở Mỹ có truyền thống đào tạo sinh viên luật suy nghĩ và hành động như những luật sư ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Hầu hết các trường luật ở Mỹ đều kết luận rằng việc kết hợp các giảng viên chính thức (đa số đều có kinh nghiệm trong nghề luật trước khi tham gia giảng dạy luật) và những thẩm phán có kinh nghiệm tham gia giảng dạy là phù hợp nhất để đào tạo nghề cho các luật sư tương lai.
Trong đào tạo luật sư ở Mỹ phải kể đến vai trò của Hội Luật gia Hoa Kỳ (ABA) – tổ chức quốc gia về ngành luật ở Mỹ. ABA đã xác định rằng cần phải xây dựng một quy trình quốc gia để đảm bảo chất lượng đào tạo luật sư. Năm 1921 ABA đã đưa ra bản quy định về tiêu chuẩn tối thiểu của giáo dục pháp luật và danh sách các trường luật được công nhận là đáp ứng được tiêu chuẩn này[9].
Năm 1992, Ban Giáo dục Pháp luật và Công nhận Luật sư của Hội Luật gia Hoa Kỳ đã công bố Báo cáo MacCrate về tình hình giáo dục và công tác đào tạo. Báo cáo được công nhận trong toàn nước Mỹ như văn bản quan trọng trong phát triển đội ngũ luật sư. Báo cáo MacCrate coi những kỹ năng và giá trị sau đây có ý nghĩa vô cùng quan trọng để có thể hành nghề luật sư một cách thành thạo:
- Các kỹ năng: Giải quyết vấn đề; phân tích và suy luận pháp lý; nghiên cứu pháp luật; điều tra thực tế; giao tiếp; tư vấn; thương lượng; kiến thức về tranh tụng và các thủ tục giải quyết tranh chấp; tổ chức và quản lý công việc pháp lý; nhận biết và giải quyết các tình huống khó xử về đạo đức.
- Các giá trị: Đại diện theo đúng thẩm quyền; đấu tranh thúc đẩy công lý, công bằng và đạo đức; tự phát triển về chuyên môn.
Báo cáo MacCrate thừa nhận rằng sẽ không hợp lý khi trông đợi các trường luật gánh vác nhiệm vụ biến các sinh viên dù rất có năng lực thành những luật sư hoàn hảo được cấp giấy phép giải quyết các vấn đề pháp luật. Ba năm học tại trường luật mới chỉ tạo dựng được nền tảng. Báo cáo nhấn mạnh: “việc phát triển các kỹ năng và giá trị của người luật sư có khả năng và trách nhiệm là một quá trình liên tục, nó bắt đầu từ trước khi vào học tại trường luật, đạt tới mức định hình rõ nét và chuyên sâu trong quá trình học tại trường luật và sẽ tiếp tục trong suốt quá trình hành nghề luật sư.
Các chương trình giáo dục pháp luật thường xuyên trong suốt quá trình hành nghề luật sư có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giảng dạy những kỹ năng và giá trị mà người luật sư cần phải có để đạt được và duy trì những chuẩn mực nghề nghiệp. Các chương trình giáo dục pháp luật thường xuyên cho luật sư có nhiều hình thức khác nhau, được tiến hành trong nhiều môi trường khác nhau và do nhiều tổ chức thực hiện việc giáo dục, quản lý.
Đào tạo luật sư tại các công ty luật: Các công ty luật lớn ở Mỹ thường tiến hành giáo dục thường xuyên cho luật sư một cách chính thức. Chương trình đào tạo có thể khác nhau nhưng việc đào tạo luật sư tại nơi làm việc sẽ tạo điều kiện cho nội dung giảng dạy phù hợp với yêu cầu của chính công ty. Hình thức đào tạo tại nơi làm việc – đặc biệt cho luật sư mới còn gồm các hội thảo về soạn thảo văn bản pháp lý, kỹ năng đàm phán hợp đồng, kỹ năng kiện tụng…Các công ty luật có quy mô nhỏ không tổ chức các chương trình đào tạo nội bộ chính thức cho luật sư mới mà thường cập nhật các kỹ năng hành nghề luật sư ngay trong quá trình làm việc.
Đào tạo luật sư tại các tổ chức đào tạo: Có rất nhiều tổ chức đào tạo thường xuyên như Trung tâm Giáo dục Pháp luật Thường xuyên của Hội Luật gia Hoa kỳ, Uỷ ban Giáo dục Pháp luật Thường xuyên của Viện Luật Hoa Kỳ, Hội Luật gia Hoa Kỳ, các đoàn luật sư của bang và địa phương, các trường luật…Thông qua Trung tâm Giáo dục Pháp luật Thường xuyên, Hội Luật gia Hoa kỳ tiến hành đào tạo luật sư dưới một loạt hình thức như các cuộc hội thảo từ 1-3 ngày nhằm cập nhật hàng năm về các lĩnh vực pháp luật thực tế, các hội nghị qua truyền hình, qua mạng Internet…Diễn giả trong các hội thảo, hội nghị này là những chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực pháp luật cụ thể được trình bày. Một ưu điểm dễ nhận thấy của hình thức đào tạo qua thảo luận trực tiếp này là khả năng tương tác hay thiết lập mạng lưới quan hệ giữa các luật sư vốn hoạt động trong cùng lĩnh vực hoặc trong các lĩnh vực có liên quan[10].
Mỗi bang trong số 50 bang của Mỹ đều quy định luật sư phải có giấy phép mới được hành nghề tại bang đó và mỗi bang cũng đặt ra các yêu cầu của riêng mình về việc duy trì hiệu lực của giấy phép hành nghề luật. 40 trong số 50 bang của Mỹ quy định luật sư phải thường xuyên tham gia các khoá học giáo dục pháp luật thường xuyên. Hội luật gia Hoa Kỳ đã thông qua Quy định mẫu về giáo dục pháp luật thường xuyên năm 1986 làm chuẩn mực cho tổ chức đào tạo cho các luật sư. Trên cơ sở đó, các bang đã thông qua quy định của riêng mình với số giờ phải học tối thiểu của luật sư từ 12 đến 15 giờ trong một năm. Ngoài ra còn có những quy định riêng đối với luật sư mới vào nghề: những luật sư hành nghề chưa tới 3 năm có thể phải qua một số khoá học căn bản về kỹ năng ngay sau khi gia nhập đoàn luật sư. Luật sư ở mọi trình độ đều bắt buộc phải tham gia một số giờ đào tạo nhất định về đạo đức nghề nghiệp, về chuyên môn luật sư…
Bình luận
Bình luận bằng Facebook