/ / / /

M&A - Khung pháp lý điều tiết sáp nhập, mua lại doanh nghiệp ở Việt Nam(II)


M&A - Khung pháp lý điều tiết sáp nhập, mua lại doanh nghiệp ở Việt Nam(II)
III. Khung pháp lý điều tiết sáp nhập, mua lại doanh nghiệp như hình thức đầu tư trực tiếp ở Việt Nam  3.1. Sự cần thiết xây dựng khung pháp lý điều tiết sáp nhập, mua lại doanh nghiệp như hình thức đầu tư trực tiếp ở Việt Nam Về đại cương, khung pháp luật và thể chế bao gồm: hệ thống quy phạm có hiệu lực bắt buộc tạo điều kiện cho thị trường xuất hiện; một quy trình ban hành, sửa đổi và thực thi pháp luật hợp lý, đơn giản, minh bạch, có sự tham gia của các chủ thể có liên quan, có thể dự đoán trước và tin cậy được và một hệ thống các thiết chế với những nhân viên có nghiệp vụ, tuân theo pháp luật, không tuỳ tiện khi thi hành công vụ . Mọi quốc gia đều có khung thể chế cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp. Tại các nước chuyển đổi và các nước mới phát triển thì đây là công cụ của Nhà nước để điều chỉnh các chính sách của mình trong giai đoạn cụ thể. Hình thức biểu hiện của thể chế đầu tư chính là các luật về đầu tư và khuyến khích đầu tư, đặc biệt là khuyến khích đầu tư nước ngoài. Nhìn chung, chính sách của các nước là tăng cường các biện pháp đảm bảo đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước. Việc các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước đều được hưởng chung những quyền và nghĩa vụ đối với việc đầu tư là một trong những phương pháp mà Thái Lan, Singapore, Malaysia sử dụng để khuyến khích đầu tư. Các lĩnh vực hạn chế đầu tư nước ngoài bị loại bỏ dần dần đến mức không còn hạn chế nào về ngành nghề kinh doanh chứng tỏ việc bảo hộ các nhà đầu tư trong nước cũng quan trọng nhưng không thể quan trọng việc khuyến khích đầu tư nước ngoài. Hầu hết các nước đều mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài và cố gắng tăng tỷ lệ mức sở hữu nước ngoài đối với nền kinh tế trong nước. Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài (sửa đổi) của Hàn Quốc cho phép mua bán trong những ngành không phải ngành chiến lược mà không cần có sự phê duyệt của Chính phủ, tăng mức trần về mức độ tham gia của nước ngoài từ 10 lên 33% mà không cần có sự phê chuẩn của Ban giám đốc doanh nghiệp, không hạn chế đối với sở hữu nước ngoài về đất đai, bất động sản, nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư góp vốn cổ phần trong các công ty không có tên trên thị trường chứng khoán. Thái Lan cũng thể hiện thái độ của mình đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong Luật Đầu tư, theo đó, các nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và mở cửa ngành công nghiệp chế tạo (trước dây vốn là ngành được bảo hộ của Thái Lan). Ngay cả Trung Quốc, một nước được đánh giá là có chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài khắt khe nhất cũng thực hiện những chính sách khuyến khích đầu tư phù hợp với việc gia nhập WTO . Về nguyên tắc, khi sáp nhập, hợp nhất với nhau giá trị của doanh nghiệp hợp nhất bao giờ cũng phải lớn hơn giá trị của các doanh nghiệp riêng lẻ cộng lại mới được xem xét, tiến hành (1+1>2). Sau sáp nhập, mức doanh lợi vốn chủ sở hữu, tốc độ tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu đều phải tăng. Từ các công ty nhỏ, lẻ kết hợp lại thành một công ty có quy mô lớn nên khả năng bị triệt tiêu trên thương trường rất khó xảy ra; doanh nghiệp cũng có khả năng đáp ứng tốt hơn yêu cầu về nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, giảm bớt các rủi ro trong kinh doanh, tiết kiệm được chi phí cố định (quản lý, điều hành, quảng cáo, văn phòng, marketing...), tiết kiệm được chi phí đào tạo nhân lực do sắp xếp, bố trí hợp lý hơn nguồn nhân lực, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tăng vốn đầu tư, có khả năng mở rộng ngành nghề kinh doanh... Đó là những cái lợi mà sáp nhập doanh nghiệp có thể mang lại. Mặc dù vậy, sáp nhập doanh nghiệp không tránh khỏi phải đối mặt với những vấn đề khá phức tạp như độc quyền, thuế, kế toán, chuyển đổi tài sản, phân chia lợi nhuận, trách nhiệm giải quyết các khoản nợ chưa thanh toán của các doanh nghiệp hợp nhất, giải quyết lao động dôi dư, môi trường văn hóa doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, tính toán các vấn đề hậu sáp nhập làm sao cho giá trị doanh nghiệp ngày càng tăng để hấp dẫn các nhà đầu tư. Việc xây dựng khung pháp lý điều tiết sáp nhập, mua lại như hình thức đầu tư là hết sức cần thiết, đặc biệt dưới góc độ khuyến khích liên kết các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tính đến cuối năm 2005, nước ta có gần 170.000 doanh nghiệp và số doanh nghiệp ngày một tăng. Tuy nhiên nếu so sánh tương quan giữa doang nghiệp Việt nam và nước ngoài thì ngoài những yéu kém về kinh nghiệm thương trường, thiếu vắng lớp người có khả năng quản trị, doanh nghiệp Việt nam còn thua kém rất nhiều ở khả năng tài chính. Mức vốn đăng ký bình quân của các công ty và doanh nghiệp tư nhân ngoài quốc doanh trong năm 2002 là 2,6 tỷ đồng. Chỉ có 42% doanh nghiệp Nhà nước có số vốn lớn hơn 20 tỷ đồng (tương đương với khoảng 1,2 triệu USD) . Như vậy tuyệt đại bộ phận doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ hơn so với đối thủ nước ngoài, trong cuộc chạy đua không cân sức, việc liên kết nói chung và sáp nhập, hợp nhất, mua lại...giữa các doanh nghiệp Việt Nam là tất yếu và cần được Nhà nước khuyến khích. Đồng thời, trong một thế giới đang toàn cầu hoá, các công ty trong nước cần phải trở thành những công ty toàn cầu; sáp nhập và mua lại là một cách để trở thành một công ty tầm cỡ thế giới Những “đám cưới voi” giữa các tập đoàn lớn trong những năm gần đây cảnh báo các nước đang phát triển về sự cần thiết phải phối hợp các nguồn lực của quốc gia để có một sức mạnh kinh tế đủ chống đỡ sự de doạ của độc quyền nước ngoài. Yêu cầu đặt ra là Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư không chỉ cụ thể hoá các quy định của Luật mà còn quy định hướng dẫn nhằm đảm bảo cho nhà đầu tư biết rõ quy trình hoạt động đầu tư, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, công khai, minh bạch thủ tục đầu tư. Trong Nghị định rõ ràng cần có quy định để nhà đầu tư biết rõ khi sáp nhập, mua lại doanh nghiệp sẽ phải làm những thủ tục gì, sẽ có quyền và nghĩa vụ gì... 3.2. Xây dựng khung pháp lý điều tiết sáp nhập, mua lại doanh nghiệp như hình thức đầu tư trực tiếp ở Việt Nam: Cần phải thấy rằng dân doanh Việt nam đang ở trong giai đoạn từ tiểu chủ trở thành doanh nghiệp nhỏ và vừa, quá trình thôn tính lẫn nhau và tập trung tư bản thành các đại tập đoàn chưa phổ biến. Những cuộc tích luỹ tư bản đáng kể xét về hình thức chỉ có thể xảy ra trong khu vực kinh tế quốc doanh mà điển hình là sáp nhập, hợp nhất để hình thành các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước và có thể xảy ra trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về khung pháp lý điều tiết sáp nhập, mua lại doanh nghiệp như hình thức đầu tư trực tiếp ở Việt Nam chúng ta có thể rút ra những kết luận sau: -Không nhất thiết phải có hướng dẫn chi tiết cho sáp nhập, mua lại doanh nghiệp như hình thức đầu tư trực tiếp. Trong Nghị định hướng dẫn chỉ cần nêu ra những chủ trương chung, mang tính chất định hướng về những vấn đề như: có cần đăng ký việc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp như hình thức đầu tư trực tiếp không? Quan điểm điều chỉnh sáp nhập, mua lại doanh nghiệp như hình thức đầu tư trực tiếp như thế nào, khuyến khích sáp nhập, mua lại bằng những ưu đãi gì... -Cần lưu ý là phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài khi đến tham khảo ý kiến các công ty tư vấn pháp lý trong quá trình ra quyết định đầu tư thường đặt các mối quan tâm của mình theo thứ tự sau: Các quyền kinh doanh cụ thể là gì? Môi trường pháp lý như thế nào? Các loại thuế áp dụng ở mức cụ thể là bao nhiêu và cuối cùng mới là có những mức ưu đãi gì? Theo thông lệ quốc tế về pháp luật đầu tư, ưu đãi đầu tư là một trong những nội dung quan trọng nhất trong chính sách đầu tư của một quốc gia. Hiện nay, ưu đãi đầu tư ở Việt Nam được ấn định dựa trên kế hoạch của nhà đầu tư, và thường được quyết định trước khi dự án đầu tư được thực tế triển khai. Điều này là trái với thông lệ quốc tế theo đó ưu đãi đầu tư phải dựa trên cơ sở kết quả hoạt động (hậu ưu đãi) chứ không dựa trên kế hoạch hay đề xuất (tiền ưu đãi) Đề xuất của chúng tôi là Việt Nam xây dựng hệ thống ưu đãi dựa trên hình thức trợ cấp đầu tư – ưu đãi được cấp theo tỷ lệ phần trăm của tổng chi phí đầu tư trong năm tính thuế thu nhập doanh nghiệp và sẽ được khấu trừ đi từ thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây là phương thức đã được áp dụng thành công ở một số nước -Việc sử dụng sáp nhập, mua lại doanh nghiệp như hình thức để thu hút đầu tư trực tiếp từ các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt trong việc mua lại, giành quyền kiểm soát các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá cần được xem xét kỹ lưỡng, cân nhắc hiệu quả của chính sách. IV. Khung pháp lý điều tiết sáp nhập, mua lại doanh nghiệp như cơ sở để hình thành thị trường mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam.  4.1. Sự cần thiết xây dựng khung pháp lý điều tiết sáp nhập, mua lại doanh nghiệp như cơ sở để hình thành thị trường mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam. Khung pháp lý điều tiết sáp nhập, mua lại doanh nghiệp chính là cơ sở để hình thành một loại thị trường mới, rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường - thị trường mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam. Thị trường mua bán công ty ở Việt Nam đang trở thành một thị trường tiềm năng, với mức phát triển không nhỏ, trên dưới 30-40%/năm . Hiện tại, ở Việt Nam có khoảng 6 000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 170 000 doanh nghiệp trong nước, 5 000 doanh nghiệp nhà nước, 15 000 hợp tác xã nếu có khung pháp lý và tạo ra được nhu cầu để những chủ thể trên tham gia vào thị trường mua bán doanh nghiệp chúng ta sẽ có khối lượng giao dịch không nhỏ trên thị trường này. Ở Việt Nam đã thực hiện nhiều vụ mua bán doanh nghiệp, điển hình như: - Picnic Gas - một công ty Thái Lan đã mua một nhà máy sản xuất vỏ bình gas từ một công ty tư nhân và một cơ sở kinh doanh khí hoá lỏng (LPG) - bao gồm tất cả tài sản, máy móc, nhà máy và tên thương mại - của một doanh nghiệp nhà nước Việt Nam - Christian Bernard Diffusion (CBD) - một công ty Pháp đã mua toàn bộ phần vốn góp của Yue Cheong Co., Ltd. - một công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam chuyên sản xuất đồ trang sức xuất khẩu. - Trenergy Gas - một công ty Malaysia đã bán một nhà máy lớn cho V-Trac trước khi chấm dứt mọi hoạt động của mình tại Việt Nam... - Công ty Công trình giao thông 677 (trực thuộc Cienco 6 - Bộ Giao thông vận tải - một doanh nghiệp Nhà nước được đem rao bán cho các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam . Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều thông tin, hiểu biết về các điều kiện, thủ tục sáp nhập, mua lại doanh nghiệp. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này tại Việt Nam chưa được quy định cụ thể, xác định chi phí thực hiện giao dịch mua lại doanh nghiệp chưa rõ ràng; thông tin về các công ty sáp nhập, mua lại chưa được cập nhật đầy đủ, thiếu tính minh bạch; nhiều doanh nghiệp chưa tham gia vào thị trường chứng khoán, vai trò kiểm toán chưa được quan tâm gây khó khăn cho việc tìm hiểu về tình hình hoạt động, tài chính của các công ty... là những cản trở không nhỏ cho việc thực hiện sáp nhập, mua bán doanh nghiệp. Theo một chuyên gia của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương: sáp nhập, mua lại doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay chủ yếu mới chỉ được thực hiện đối với các doanh nghiệp Nhà nước yếu kém, khó tồn tại độc lập hoặc có nguy cơ phá sản... vào một doanh nghiệp Nhà nước khác theo kiểu mệnh lệnh hành chính, nên chưa thể phản ánh đầy đủ tính ưu việt của nó. Tăng cường tính minh bạch trong cung cấp thông tin về các công ty thực hiện sáp nhập, hợp nhất, mua bán, giành quyền kiểm soát và một khuôn khổ pháp lý cụ thể, rõ ràng cho việc mua bán, sáp nhập doanh nghiệp là rất cần thiết. Sáp nhập doanh nghiệp, theo phân tích của các chuyên gia kinh tế là một trong những giải pháp tổ chức lại các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Sáp nhập, mua bán doanh nghiệp đối với thế giới không có gì mới. Tuy nhiên, đối với Việt Nam lại là một bước đi mới mẻ. Trong chương trình cải cách doanh nghiệp của Việt Nam, ngoài các hình thức chuyển đổi, đa dạng hóa sở hữu như cổ phần hóa, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp... còn có hình thức bán, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp... Tuy nhiên, các hình thức trên vẫn chưa được áp dụng phổ biến. Theo học thuyết về chi phí giao dịch của R. Coase, luật pháp suy cho cùng cũng là một yếu tố tạo nên chi phí giao dịch trong kinh doanh. Khi thực hiện giao dịch, nhà kinh doanh phải chi phí cho: a) nghiên cứu và thông tin, b) thương thảo và quyết định, c) ra chính sách và triển khai thực hiện. Luật pháp minh bạch, ổn định, có thể dự báo được và tin cậy sẽ làm giảm rủi ro kinh doanh, điều đó làm giảm chi phí giao dịch, từ đó giao lưu kinh tế sẽ tăng . Từ đây có thể thấy việc xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh điều tiết sáp nhập, mua lại sẽ làm giảm chi phí giao dịch, làm hình thành và thúc đẩy thị trường mua bán doanh nghiệp. Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về các văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Cần tiến hành đồng thời cả ba mặt: Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng: Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch và chính sách trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc của thị trường. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát huy các nguồn lực của xã hội phát triển...Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo hướng cạnh tranh thuận lợi...Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh...Chúng ta chủ trương xây dựng và thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp, xây dựng một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam có sức cạnh tranh cao, chủ lực là một số tập đoàn và công ty lớn dựa trên hình thức cổ phần... đồng thời thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài”. 4.2. Xây dựng khung pháp lý điều tiết sáp nhập, mua lại doanh nghiệp ở Việt Nam như cơ sở của thị trường mua bán doanh nghiệp Câu hỏi đặt ra là ở Việt Nam đã hình thành thị trường mua bán doanh nghiệp hay chưa? Theo chúng tôi, thị trường mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam chỉ coi là được hình thành khi doanh nghiệp thực sự trở thành hàng hoá. Không phải cứ có hoạt động mua bán doanh nghiệp là có thị trường mua bán doanh nghiệp mà chỉ khi hoạt động này phát triển đến một mức độ nhất định thì mới có thị trường mua bán doanh nghiệp. Không thị trường nào tồn tại được ở một nơi trống không, thị trường chỉ tồn tại trên cơ sở các khung pháp lý do Nhà nước đưa ra. Cách thức Nhà nước quyết định điều chỉnh thị trường là rất quan trọng. Hiện tại thị trường mua bán doanh nghiệp vẫn chưa được xác định rõ ràng ngay cả trong những vấn đề có tính nguyên tắc như doanh nghiệp ở đây được xác định như một loại hàng hoá - thị trường mua bán doanh nghiệp sẽ như một bộ phận cấu thành của thị trường hoàng hoá, dịch vụ hay doanh nghiệp là một loại bất động sản và thị trường mua bán doanh nghiệp sẽ như một bộ phận cấu thành của thị trường bất động sản. Trên thế giới hình thành nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Theo quan điểm của Pháp, doanh nghiệp là tập hợp các nhân tố, phương tiện vật chất, thiết bị, nhân công, vốn...nhằm sản xuất một số của cải vật chất hoặc để làm dịch vụ. Luật của Pháp có rất ít văn bản đề cập đến khái niệm doanh nghiệp, trong Luật Thương mại thường nói đến cơ sở kinh doanh là một trong những nhân tố của doanh nghiệp theo nghĩa kinh tế: đó là tổng thể các nhân tố hữu hình và vô hình thuộc sở hữu của nhà kinh doanh đem vào để kinh doanh. Cơ sở kinh doanh được coi là động sản và mọi nghiệp vụ liên quan đến cơ sở kinh doanh đều được coi là hành vi thương mại. Việc bán cơ sở kinh doanh ở Pháp được quy định trong Luật ngày 17 tháng 3 năm 1909 được Luật ngày 26 tháng 7 năm 1955 sửa đổi . Điều 132 Bộ luật Dân sự của Liên bang Nga ngày 30 tháng 11 năm 1994, sửa đổi ngày 26 tháng 11 năm 2001 xem xét doanh nghiệp như đối tượng của quan hệ pháp luật là tổng thể tài sản được sử dụng trong hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp ở nghĩa này được coi là bất động sản. Doanh nghiệp hay một phần của nó có thể là đối tượng của hợp đồng mua bán, thế chấp, cho thuê và các hợp đồng khác gắn với việc xác định, thay đổi, chấm dứt các quyền tài sản . Theo Điều 174 Bộ luật Dân sự 2005, bất động sản là các tài sản bao gồm: a) Đất đai; b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; c) Các tài sản khác gắn liền với đất đai; d) Các tài sản khác do pháp luật quy định. Như vậy ở cái nhìn đầu tiên theo pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp không được coi là bất động sản nhưng theo mục d) doanh nghiệp cũng có thể được pháp luật quy định là bất động sản. Xây dựng khung pháp lý điều tiết sáp nhập mua bán doanh nghiệp như hình thức đầu tư trực tiếp ở Việt Nam và như cơ sở để hình thành thị trường mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam, do tính chất và phạm vi hướng dẫn của Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư và để đảm bảo tính đồng bộ của văn bản, theo chúng tôi cần có Nghị định riêng quy định chi tiết về sáp nhập, mua lại theo một số điều đã được đưa ra trong cả Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư. Điều tiết sáp nhập, mua bán doanh nghiệp sẽ nằm ở khoảng giao thoa, tiếp cận cả hai Luật kể trên. V.Ý kiến đóng góp cụ thể cho quy định về sáp nhập, mua lại trong dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư Điều 11 Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư ngày 15 tháng 5 năm 2006 quy định: 1.Nhà đầu tư có quyền góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập và mua lại doanh nghiệp để tham gia quản lý hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan và được đối xử bình đẳng không phân biệt trong việc góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. 2.Nhà đầu tư nước ngoài không được góp vốn, mua cổ phần vượt quá cam kết về tỷ lệ mua, hình thức đầu tư và lộ trình quy định trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. 3.Nhà đầu tư nước ngoài sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh tại Việt Nam phải đảm bảo các điều kiện sau: a)Không được trái với các quy định về sáp nhập, mua lại doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp b)Trường hợp mà nhà đầu tư nước ngoài sáp nhập, mua lại doanh nghiệp tại Việt Nam mà có thị phần của nhà đầu tư nước ngoài hơn 30% trên thị trường trong năm thực hiện giao dịch sáp nhập, mua lại thì nhà đầu tư phải gửi cho cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư ý kiến bằng văn bản của cơ quan quản lý cạnh tranh để xem xét cấp Giấy chứng nhận đầu tư 4.Doanh nghiệp nhận sáp nhập và mua lại kế thừa các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập và mua lại trừ các bên có thoả thuận khác. Dựa trên một số cơ sở lý luận và thực tiễn đã trình bày ở trên, chúng tôi có những ý kiến sau để đóng góp cụ thể cho quy định về sáp nhập, mua lại trong dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư: 1. Quy định về sáp nhập, mua lại là một bước tiến mới, tích cực, cho phép nhà đầu tư được tự chủ trong các quyết định đầu tư của mình, đặc biệt trong việc lựa chọn hình thức đầu tư và đây có thể là một phương thức hữu hiệu để tạo thêm điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài. 2. Mục 1 khẳng định quyền và nguyên tắc bình đẳng không phân biệt trong việc góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập và mua lại doanh nghiệp, tuy nhiên ngay ở Mục 2,3 đã có sự phân biệt đối với nhà đầu tư nước ngoài. 3. Mục 1 có thể nêu nguyên tắc khuyến khích Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. Hiện tại, theo quy định của pháp luật: Cơ sở sản xuất mới thành lập được miễn giảm thuế TNDN là những cơ sở mới được thành lập và được cấp giấy phép kinh doanh kể từ ngày Luật Thuế TNDN có hiệu lực thi hành.( Nghị định số 164/2003/NĐ-CP). Những cơ sở thành lập trước đây nay chia tách, sáp nhập, hợp nhất, đổi tên, chuyển đổi hình thức doanh nghiệp hoặc đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất, bổ sung mặt hàng, ngành nghề vào giấy phép kinh doanh không thuộc đối tượng được xét miễn thuế, giảm thuế như cơ sở sản xuất mới thành lập. 4. Mục 2 nêu hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài mà theo chúng tôi là đương nhiên, không cần thiết phải nhắc lại. Cần phải chỉ ra các cam kết về tỷ lệ mua, hình thức đầu tư và lộ trình quy định trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên 5. Mục 1 đã nêu quyền và đồng thời cũng là nguyên tắc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp như vậy mục 3.a) là thừa 6. Mục 3.b: Cần làm rõ: Trường hợp mà nhà đầu tư nước ngoài có thị phần hơn 30% trên thị trường trong năm thực hiện giao dịch sáp nhập, mua lại thực hiện sáp nhập, mua lại doanh nghiệp tại Việt Nam... hay: Trường hợp mà nhà đầu tư nước ngoài sáp nhập, mua lại doanh nghiệp tại Việt Nam có thị phần hơn 30% trên thị trường trong năm thực hiện giao dịch sáp nhập, mua lại... 7.Việc Doanh nghiệp nhận sáp nhập và mua lại kế thừa các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập và mua lại là đương nhiên và đã được nêu ngay trong định nghĩa về sáp nhập, mua lại.

Bình luận

Chưa có bình luận cho bài viết này.

Gửi bình luận

Bạn cần Đăng nhập để viết bình luận bằng tài khoản cá nhân.

Bình luận bằng Facebook

" Luật sư sống bằng việc BÁN KIẾN THỨC và TRÍ TUỆ, SỰ HIỂU BIẾT. Khách hàng đến với Luật sư để MUA những thứ bạn có. Nếu bạn không những thứ đó thì sẽ bán gì cho khách hàng? Sự UYÊN THÂM trong nghề tạo ra giá trị thật sự cho thân chủ" - Luật sư Vũ Ngọc Dũng -0938188889

Đăng ký nhận tin

Nhập email để là người đâu tiên nhận được những tin tức mới nhất từ Blog Vũ Văn Dũng. Chúng tôi cam kết bảo đảm quyền riêng tư cho email của bạn.

Hỗ trợ trực tuyến