/ / / /

VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG TƯ PHÁP VÀ TỐ TỤNG TRONG THỰC THI LUẬT CÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ SỐ Ở VIỆT NAM


VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG TƯ PHÁP VÀ TỐ TỤNG TRONG THỰC THI LUẬT CÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ SỐ Ở VIỆT NAM

Bài viết của Luật sư Vũ Ngọc Dũng - Công ty Luật 911 ). Xin phép khi sao chép dưới mọi hình thức:

VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG TƯ PHÁP VÀ TỐ TỤNG TRONG THỰC THI LUẬT CÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ SỐ Ở VIỆT NAM

TÓM TẮT

Vai trò trung tâm của hệ thống tư pháp và tố tụng trong việc thực thi Luật Công nghiệp Công nghệ số – một đạo luật mới, có ảnh hưởng sâu rộng đến quan hệ dân sự, kinh tế và hình sự hiện đại. Trong bối cảnh tài sản số, hành vi số và tranh chấp kỹ thuật số ngày càng phổ biến, hệ thống tòa án, viện kiểm sát, và cơ quan điều tra không thể tiếp tục vận hành theo tư duy pháp lý truyền thống. Bài viết nêu rõ các yêu cầu lập pháp, thực tiễn xét xử, định hướng chuyên môn hóa và gợi mở đề xuất cải cách thể chế tư pháp phù hợp với nền kinh tế số.


1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Việt Nam đang trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia, trong đó Luật Công nghiệp Công nghệ số được kỳ vọng là đạo luật nền tảng thúc đẩy kinh tế số. Tuy nhiên, tài sản số, hợp đồng thông minh, tranh chấp ví điện tử, hành vi lừa đảo blockchain,... đều là những hiện tượng mới mà hệ thống tư pháp và tố tụng chưa từng xử lý đầy đủ.

Câu hỏi đặt ra: Hệ thống tư pháp cần chuẩn bị gì – về pháp lý, thể chế, con người – để thực thi hiệu quả Luật Công nghiệp Công nghệ số?


2. LUẬT CÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ SỐ VÀ TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI TƯ PHÁP

2.1. Các hiện tượng pháp lý mới do luật điều chỉnh

  • Tài sản số (Điều 49 Dự thảo): đại diện kỹ thuật số của giá trị hoặc quyền sở hữu, được tạo ra và giao dịch dưới dạng điện tử.

  • Các hành vi số hóa: phát hành token, chuyển nhượng qua hợp đồng thông minh, mã hóa quyền tài sản.

  • Môi trường kỹ thuật số xuyên biên giới: ví blockchain, giao dịch phi tập trung (DeFi), hợp đồng lưu trữ đám mây…

2.2. Nhu cầu pháp lý thực tế

  • Xác lập quyền sở hữu tài sản số trong tranh chấp dân sự;

  • Kê biên, phong tỏa, thi hành án đối với tài sản số;

  • Truy tố hành vi chiếm đoạt, gian lận kỹ thuật số;

  • Phối hợp xuyên biên giới để xử lý ví điện tử hoặc nền tảng ở nước ngoài.


3. CÁC THÁCH THỨC VÀ KHOẢNG TRỐNG HIỆN HỮU

3.1. Bộ luật Dân sự chưa có khái niệm rõ ràng về tài sản số

Dù Điều 105 BLDS 2015 định nghĩa tài sản là “vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”, nhưng không xác định tài sản phi vật thể được mã hóa là một loại hình sở hữu độc lập.

⟶ Việc xác lập quyền sở hữu tài sản số chưa có cơ chế pháp lý minh định.

3.2. Bộ luật Tố tụng chưa có cơ chế xử lý tranh chấp số

  • Không có quy định về việc thu thập chứng cứ điện tử liên quan đến blockchain.

  • Thiếu hướng dẫn thi hành án đối với tài sản số không nằm trong hệ thống ngân hàng, kho bạc.

3.3. Bộ luật Hình sự chưa phân hóa rõ hành vi phạm tội số

  • Các tội danh như “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 174 BLHS) hay “truy cập trái phép” (Điều 289) chưa đủ để xử lý phức hợp tội phạm kỹ thuật số như:

    • Phát hành token gian dối;

    • Lừa đảo đầu tư NFT không minh bạch;

    • Đánh cắp khóa cá nhân truy cập ví blockchain.


4. HỆ THỐNG TƯ PHÁP CẦN LÀM GÌ ĐỂ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU MỚI

4.1. Về lập pháp và hướng dẫn thực thi

  • TANDTC cần ban hành án lệ hoặc nghị quyết hướng dẫn công nhận tài sản số là đối tượng của tranh chấp dân sự;

  • Bổ sung BLTTDS quy định về chứng cứ số, biện pháp khẩn cấp tạm thời với tài sản số;

  • Cập nhật BLHS và BLTTHS để đưa các hành vi vi phạm liên quan đến ví điện tử, mã hóa trái phép, lừa đảo bằng token… vào cấu thành tội phạm rõ ràng.

4.2. Về thiết chế chuyên trách

  • Thành lập Tổ chuyên trách công nghệ số tại TANDtổ điều tra tài sản số tại Bộ Công an;

  • Phân công kiểm sát viên chuyên trách theo dõi vụ án số, với kiến thức công nghệ và khả năng truy vết chuỗi giao dịch.

4.3. Về đào tạo và năng lực cán bộ

  • Đào tạo “thẩm phán công nghệ”, kiểm sát viên công nghệ, điều tra viên blockchain;

  • Nội dung đào tạo: luật công nghệ số, kỹ thuật mã hóa, nhận diện tài sản số, quy trình phong tỏa – truy thu ví điện tử;

  • Kết hợp các kỹ năng điều tra số, quản lý chứng cứ điện tử, định giá tài sản kỹ thuật số.


5. ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH TƯ PHÁP HÓA LUẬT CÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ SỐ

Hạng mục Nội dung đề xuất Chủ thể thực hiện
Cơ sở pháp lý Ban hành hướng dẫn xác định tư cách pháp lý của tài sản số TANDTC – Bộ Tư pháp
Thẩm quyền Giao tòa án cấp tỉnh thụ lý sơ thẩm các vụ việc liên quan đến công nghệ số Quốc hội sửa Luật Tổ chức Tòa án
Chuyên môn hóa Thi tuyển thẩm phán có năng lực xử lý tài sản số TANDTC – Học viện Tư pháp
Hợp tác quốc tế Tham gia hợp tác tư pháp số ASEAN – APEC – Interpol về tranh chấp số Bộ Ngoại giao – Bộ Công an

 


6. KẾT LUẬN

Luật Công nghiệp Công nghệ số sẽ không thể thực thi hiệu quả nếu hệ thống tư pháp và tố tụng không chuyển đổi tương ứng. Pháp luật chỉ là nền móng; chính tư pháp mới là “cửa ngõ thực thi” của quyền tài sản, quyền khởi kiện, quyền bảo vệ.

Muốn vậy, Việt Nam cần sớm:

  • Tư pháp hóa khái niệm tài sản số;

  • Sửa đổi các luật tố tụng và hình sự;

  • Nâng cao năng lực con người và thiết chế;

  • Bảo đảm quyền sở hữu số được bảo vệ công khai, minh bạch và hiệu quả như tài sản truyền thống.

Một nền tư pháp số hóa không chỉ là yêu cầu công nghệ, mà là bảo đảm công lý trong thời đại kỹ thuật số.

DO ĐÓ

Luật Công nghiệp Công nghệ số là bước đột phá trong tiến trình hoàn thiện thể chế pháp lý cho nền kinh tế số tại Việt Nam. Tuy nhiên, nếu không được hậu thuẫn bằng một hệ thống tư pháp hiện đại, nhạy bén với công nghệ và đủ năng lực thực thi, thì các quy định tiến bộ trong luật sẽ khó đi vào cuộc sống. Bài viết này khẳng định rằng: hệ thống tòa án, viện kiểm sát, và cơ quan điều tra cần nhanh chóng đổi mới từ nhận thức pháp lý đến phương thức tổ chức và đào tạo nhân lực, để thích ứng với sự phức tạp của các tranh chấp dân sự, hành vi hình sự liên quan đến tài sản số, hợp đồng thông minh, dữ liệu mã hóa và công nghệ blockchain.

Trọng tâm cải cách không chỉ là bổ sung luật, mà còn là "tư pháp hóa" khái niệm và quy trình: công nhận tài sản số là tài sản hợp pháp, định danh hành vi vi phạm trong môi trường số, xây dựng quy trình thu thập chứng cứ điện tử và thi hành án tài sản phi vật thể. Đồng thời, năng lực con người phải được nâng tầm với chuyên môn công nghệ, tư duy xuyên quốc gia và khả năng ứng dụng pháp luật sáng tạo trong môi trường số.

Việt Nam có cơ hội lớn để xây dựng một hệ thống tư pháp số hóa, hiện đại, công bằng, không chỉ xử lý hiệu quả tranh chấp trong nước mà còn đủ năng lực hội nhập quốc tế về tư pháp kỹ thuật số. Đây chính là nền tảng vững chắc để bảo vệ quyền tài sản, quyền tự do hợp đồng và quyền khởi kiện trong thời đại công nghệ – nơi mà công lý cần được hiện diện ngay cả trên ví điện tử, chuỗi khối hay mã giao dịch.

Bình luận

Chưa có bình luận cho bài viết này.

Gửi bình luận

Bạn cần Đăng nhập để viết bình luận bằng tài khoản cá nhân.

Bình luận bằng Facebook

" Luật sư sống bằng việc BÁN KIẾN THỨC và TRÍ TUỆ, SỰ HIỂU BIẾT. Khách hàng đến với Luật sư để MUA những thứ bạn có. Nếu bạn không những thứ đó thì sẽ bán gì cho khách hàng? Sự UYÊN THÂM trong nghề tạo ra giá trị thật sự cho thân chủ" - Luật sư Vũ Ngọc Dũng -0938188889

Đăng ký nhận tin

Nhập email để là người đâu tiên nhận được những tin tức mới nhất từ Blog Vũ Văn Dũng. Chúng tôi cam kết bảo đảm quyền riêng tư cho email của bạn.

Hỗ trợ trực tuyến